(Tôi viết bài này sau khi đến thăm tòa tháp đôi ở New York)
Cây cối ở New York cho người ta nhận thấy mùa xuân đã bắt đầu lộ ra sự lộng lẫy của nó. Hoa đã bắt đầu nở rộ và lá non đã phủ kín cành. Trong khi đó ở Boston đã đầu tháng Năm mà cây cối vẫn còn im lặng. Những cái cây ở Boston như vẫn còn ngái ngủ trong hơi lạnh còn lại của mùa đông.
New York lạnh không kém Boston. Nhưng tôi lại mang cảm giác thành phố này luôn luôn rực nóng bởi nhiệt độ tỏa ra từ hàng triệu chiếc xe hơi chạy miên man, và bởi nhiệt độ tỏa ra từ thân thể của mười lăm triệu người sống ở thành phố này.
Tôi đến New York lần đầu tiên là năm 1993. Tôi nhớ ngày ấy, dù đi đâu, chúng tôi cũng phải lẽo đẽo theo sau một người bạn Mỹ như trẻ con túm gấu áo người lớn giữa đám đông vì sợ lạc. Đúng thật, chỉ lỡ một bước là ta bị cuốn chìm trong dòng thác người đi bộ và bị biến mất ngay lập tức.
Tôi thực sự mang cảm giác không có sự hiện diện của mình ở thành phố này, và nguy cơ mình có thể bị biến mất bất kỳ lúc nào. Bởi New York là một thành phố khổng lồ và quá xa lạ. Người Mỹ nói, New York là nơi chứa đựng tất cả những gì có trên thế gian: giàu có nhất, sang trọng nhất, mafia nhất, đĩ điếm nhất, vô gia cư nhất, đa quốc tịch nhất, hãnh diện nhất và cũng sợ hãi nhất.
Mùa hè năm 1993, một nữ văn sĩ Mỹ nổi tiếng, bà Susan Brownmiller, đã dẫn chúng tôi tham quan điểm đầu tiên là Phố 42. Đây là một trong những đường phố sex của nước Mỹ. Những phòng nhảy khỏa thân liên tiếp cùng với những cửa hiệu bán mọi thứ từ sách báo, băng đĩa, các dụng cụ bằng chất dẻo liên quan đến sex. Và trước những phòng nhảy khỏa thân và các cửa hiệu, là những giáo sĩ đang truyền bá giáo lý, các đảng viên của nhiều đảng phái, nhiều tổ chức xã hội đang phát tờ rơi quảng cáo cho đảng phái hay tổ chức của mình, các nghệ sĩ tự do say sưa chơi nhạc. Bên cạnh họ là những đôi đồng tính âu yếm nhau cứ như thế gian này chỉ có mình họ mà thôi.
Trước khi đến Phố 42, nữ văn sĩ Susan nói : Tôi đưa các anh đi xem những cái xấu của nước Mỹ, còn cái tốt, các anh tự tìm hiểu lấy. Susan là nhà văn làm cho một kênh truyền hình của Mỹ trong thời gian chiến tranh Việt Nam. Sau đó, bà bỏ công việc này vì theo bà, truyền hình Mỹ đã nói dối quá nhiều về cuộc chiến tranh này. Trong cuốn sách nổi tiếng "Phản lại thiện chí của chúng ta : đàn ông, đàn bà và sự cưỡng hiếp", bà đã viết một chương về lính Mỹ đã cưỡng hiếp các cô gái vị thành niên Việt Nam.
Sau khi đi thăm Phố 42, bà nói với chúng tôi : Tôi vừa ở Việt Nam về và tôi rất buồn, Việt Nam ngày càng có nhiều gái mại dâm. Việt Nam không thể có gái mại dâm được. Tất nhiên, bà và mọi người thừa hiểu rằng xã hội nào cũng có gái mại dâm. Nhưng bà yêu đất nước này vì những lý do riêng và bà muốn chọn một nơi chốn để hy vọng. Và bà đã thất vọng.
Hình như không có gì của thành phố này quen thuộc với tôi, trừ những cái cây và những bao thuốc Malboro. Tôi từ thị xã Hà Đông bé bỏng của tỉnh Hà Tây đến, và tôi bị thành phố này đe dọa. Hình như ở đây không ai biết ai. Lúc ấy, đoàn nhà văn Việt Nam ở trong một cư xá ở Đường 72. Cư xá rất rộng. Buổi tối, Kevin, người đưa chúng tôi từ Boston đến New York, đã trở về Boston. Ông John MacAuliff, Giám đốc Tổ chức Hoà giải Đông Dương, người đón tiếp chúng tôi trong những ngày ở New York, đã về nhà. Chỉ còn lại mấy anh em nhà văn chúng tôi. Tòa cư xá cao mười tầng, hun hút cầu thang và các lối đi.
Căn phòng chúng tôi ở rất rộng, nên họ bố trí một người khách khác ở cùng. Ông này hình như là người Đức gốc Ả-rập. Chúng tôi không biết ông làm gì. Ông đi suốt ngày và thường trở về sau mười hai giờ đêm và lục đục làm gì đó trong bóng tối căn phòng. Hai đêm đầu tiên ở trong cư xá đó quả thực là hai đêm chúng tôi như tách khỏi thế giới. Không một người quen, không điện thoại. Không có một nơi nào để có thể bấu víu khi trong đêm lỡ xẩy ra chuyện gì. Đến ngày thứ ba, chúng tôi tìm mọi cách để trở về Boston, một thành phố nhỏ hơn, nhiều người quen hơn và yên tĩnh hơn.
Tôi mang cảm giác muốn chạy trốn khỏi thành phố này. Không chỉ là tôi, mà có cả những người Mỹ cũng mang cảm giác giống tôi. Ở Hà Nội, tôi cũng nhiều lúc mang cảm giác muốn chạy trốn như thế. Nhưng là cảm giác về một thành phố quá bé nhỏ và chật hẹp. Tôi có nhiều người quen ở đó và cũng có nhiều người biết tôi. Nhiều lần ngồi trong một quán ăn ở Hà Nội, tôi lại nghe được câu chuyện của những người lạ về một người quen của mình.
Hình như ở Hà Nội, ai làm gì, đi đâu, mọi người cũng biết. Khi chúng ta ở một nơi mà ai cũng biết chúng ta thì giống như trong phòng ngủ, trong buồng tắm của chúng ta luôn luôn có những đôi mắt mở rất to nhìn chúng ta và có những đôi tai lúc nào cũng nghiêng về phía chúng ta để nghe chúng ta thì chúng ta sẽ rơi vào một cảm giác hoang mang và sợ hãi. Chính vì thế mà người ta mang cảm giác muốn chạy trốn khỏi nơi đó.
Lần này đến New York, cảm giác hoang mang và sợ hãi mơ hồ vẫn còn trong tôi. Nhưng tôi đã có thể tự tin hơn để lang thang một mình trong đêm dọc ngang nhiều phố. Một nhà văn Mỹ nói với tôi, hãy cứ coi mình là người New York, đi giữa New York như một người Hà Nội đang đi giữa Hà Nội của anh thì anh sẽ cảm thấy chẳng có chuyện gì. Ông quả là người có nhiều kinh nghiệm. Kinh nghiệm ấy giống như phép tàng hình.
New York là thành phố không bao giờ ngủ. Hình như nghịp sống hối hả, sôi sùng sục của thành phố này chưa bao giờ dừng lại dù chỉ một giây. Tôi cố thử hiểu xem người dân thành phố này sống như thế nào và nghĩ những gì trong đầu họ. Nhưng quả thực, tôi chưa bao giờ tin vào sự hiểu biết của tôi về thành phố ấy. Tôi luôn luôn mang cảm giác rằng nếu tôi liều lĩnh bước chân vào một ngõ phố nào đó, một cửa hiệu hay một khu nhà nào đó ở New York, tôi sẽ bị nuốt chửng và không một ai có thể tìm thấy tôi nữa.
Năm 1994, trong chuyến đi lần thứ hai đến Mỹ, tôi được một người bạn lái xe đưa đi thăm hai nơi : Trụ sở Hội đồng Liên Hợp quốc và Trung tâm Thương mại Thế giới. Lần này đến Mỹ, nơi tôi muốn đến thăm là Trung tâm Thương mại Thế giới. Hai tòa nhà khổng lồ, cao chọc trời ở New York mà trong những bức ảnh về thành phố này đều hiện lên đầy sức mạnh và kiêu hãnh đã biến mất. Bây giờ nơi ấy chỉ còn lại một khoảng trống mênh mông.
Khi đến đó, nhìn những nhôi nhà cao tầng bên cạnh, nghĩ đến hai hai tòa nhà khổng lồ, cao chọc trời ấy sụp đổ ngày 11 tháng 9, tôi bỗng rùng mình. Khối bê-tông ấy sụp xuống chắc chắn chẳng khác gì trời cao sập xuống. Tôi đã xem cảnh những chiếc máy bay lao vào tòa tháp đôi nhiều lần, và lần nào cũng một cảm giác kinh hãi. Nhưng khi đến tận nơi này, nhìn lên những tòa nhà cao tầng bên cạnh mà hình dung tòa tháp đôi sụp đổ thì càng khủng khiếp. Nếu khi tòa tháp đôi sụp đổ mà bạn đang đứng ở đó, bạn có thể rơi vào trạng thái mất trí.
Giờ đây, một hàng rào bằng sắt bao quanh khu tòa tháp đôi với số lượng sắt thép có thể xây dựng cả thị xã Hà Đông của tôi. Người Mỹ đang bắt đầu xây dựng lại nơi này. Suốt gần hai năm nay, hàng triệu người Mỹ đã đến nơi này và viết lên bất cứ nơi nào có thể viết được quanh đó nỗi đau đớn và thương tiếc của họ đối với những người đã chết trong thảm họa 11 tháng 9.
Tôi đi lang thang cả buổi sáng cũng chỉ đọc được một phần nhỏ những gì người sống viết cho người chết. Hầu như tất cả đều cầu nguyện cho những người đã chết. Con viết gửi cha, vợ viết gửi chồng, mẹ viết gửi con, anh viết gửi em, người yêu viết gửi người yêu, bạn viết gửi bạn, cháu viết gửi ông bà. Một dòng chữ mà ta có thể thấy ở mọi nơi quanh khu tòa tháp đôi. Đó là dòng chữ : Xin đừng sống mãi với cái ngày khủng khiếp ấy nữa, nhưng đừng bao giờ quên ngày ấy.
Có khoảng 4.000 người đã chết ở đây. Xương thịt họ bị nghiền nát cùng sắt thép và bê-tông. Đây là đám tang lớn nhất mở đầu cho thế kỷ 21. Sau gần ba mươi năm, nỗi đau đớn về cuộc chiến tranh ở Việt Nam đang nguôi ngoai dần trong lòng người Mỹ thì họ lại phải ghánh chịu một nỗi đau khác trên chính thành phố mà họ tự hào nhất. Có những lời nguyền rủa Osama Biladen : ''Biladen là con quái vật ăn thịt người ghê tởm nhất hành tinh''. Và có những lời nguyền rủa tổng thống Mỹ : ''Ông Bush chính là nguyên nhân của tất cả những gì đã xẩy ra đối với nước Mỹ''.
Một dòng chữ khác : ''Khởi đầu của sự kết thúc''. Chữ kết thúc được viết rất đậm. Câu này tôi thấy có nhiều nghĩa. Có dòng chữ bị xóa, nhưng cố gắng vẫn có thể đọc được. Tôi đã đọc được một trong những dòng chữ ấy : ''Đây là sự trừng phạt của Ala đối với người Mỹ''. Chắc chắn đây là dòng chữ do một người Hồi giáo viết. Và dòng chữ viết đè lên : ''Bọn khủng bố sẽ bị trừng phạt''. Có những dòng chữ thật non nớt. Đó là những dòng chữ của những đứa bé : ''Mẹ ơi, con yêu mẹ, Chúa sẽ phù hộ cho mẹ, con nhớ mẹ lắm. Mẹ đừng chết mẹ nhé''.
Ngày 11 tháng 9 đã trở thành một cơn ác mộng của nước Mỹ. Một người Mỹ nói : ''Trong một đêm tỉnh giấc, tôi đã nhìn thấy bóng tòa tháp đôi treo lơ lửng trên bầu trời thành phố''. Có người còn nói nhìn thấy tất cả người chết bay rợp bầu trời New York trong đêm. Đấy chỉ là cơn ác mộng, nhưng có thể đó là sự thật. Có những người Mỹ bị hội chứng tiếng máy bay bay qua thành phố. Một người Mỹ nói : ''Tôi ngước nhìn lên bầu trời phía trên những ngôi nhà cao tầng, một chiếc máy bay đang bay qua, và nỗi sợ hãi của tôi chỉ mất đi khi bóng chiếc máy bay đã khuất và tôi không còn nghe tiếng máy bay vọng lại nữa''.
Tôi không phải là người Mỹ, mà ngược lại, là công dân của một nước mà Mỹ vẫn còn những thù địch, nhưng lòng tôi cảm thấy thật đau đớn. Bởi những người chết kia là những người vô tội. Một nhà thơ Mỹ nói với tôi : Không phải chính quyền Mỹ muốn làm cho nước Mỹ giàu có thêm, mà là họ muốn thống trị thế giới. Bởi thế mà người dân Mỹ và người dân ở nhiều nơi thế giới phải chịu đau đớn về tham vọng của họ.
Sau khi Mỹ tấn công Iraq, phu nhân Tổng thống Bush đã mời một số nhà thơ danh tiếng vào Nhà Trắng đọc thơ. Bà muốn cho người Mỹ thấy rằng, chồng bà không phải là dân của xứ sở cao bồi Mỹ, mà cũng là những người yêu và trọng thị thơ ca. Nhưng buổi đọc thơ này phải giải tán vội vì các nhà thơ lấy diễn đàn đó đọc thơ chống chiến tranh. Một trong những nhà thơ dựng lên một trang website nổi tiếng có tên : Thơ chống chiến tranh. Đó là thi sĩ Sam Hamill. Ông đã đến thăm chúng tôi ở thị xã Hà Đông bé bỏng. Chúng tôi đã nói về thơ ca của các nhà thơ trong những năm tháng chiến tranh ở Việt Nam.
Cho đến bây giờ, người Mỹ vẫn để tang những người đã chết ở tòa tháp đôi. Tôi đi men theo bức rào quanh khu vực này và đọc những lời điếu hàng ngày vẫn được viết lên ở đó và tôi biết họ còn viết mãi. Người Mỹ đang xây lại một “tòa tháp đôi” khác để quên đi tòa tháp đôi đã sụp đổ trong cái ngày mà không có trong lời của các nhà tiên tri. Có những người Mỹ đã đưa ra ý kiến không cho trẻ em Mỹ biết về ngày 11/9 bi thảm ấy. Nhưng hầu hết mọi người đều thấy rằng, những đứa trẻ, những công dân tương lai của nước Mỹ phải biết được nỗi bi thương và sự nhục nhã của con người đối với chính con người để tìm một con đường mới cho nhân loại, con đường của hòa bình và không thù hận.
(Rút từ bản thảo Người kể chuyện lúc nửa đêm và những giấc mộng)
NGUYỄN QUANG THIỀU 11.09.2021
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.