Đăng ngày:
Những bí mật cuối cùng của Stalin
Sau cái chết của nhà độc tài ở datcha Blijnaia, người ta phát hiện ba tài liệu cất dưới một tờ báo, nằm sâu trong ngăn kéo. Trong đó có một lá thư của thống chế Tito, khuyến cáo Stalin không nên gởi sang những kẻ sát nhân nữa, nếu không ông sẽ điều đến Matxcơva một sát thủ và anh ta sẽ không trượt mục tiêu. Stalin đã học được bài học phải tôn trọng vị thống chế không sợ trời không sợ đất này ! Lá thư thứ hai là của Bukharin, đồng minh nhưng sau này trở thành đối thủ, gọi Stalin bằng « Koba », biệt danh từ thời đi cướp ngân hàng.
Cuối cùng là lá thư của Lênin đề ngày 05/03/1922, yêu cầu Stalin phải xin lỗi vợ ông là Nadejda Krupskaia vì đã có những phát ngôn thô lỗ gây tổn thương cho bà. « Đồng chí Stalin thân mến, tôi đề nghị đồng chí chọn lựa : hoặc rút lại những gì đã nói và xin lỗi, hoặc chúng ta cắt đứt mọi liên hệ ». Để tránh bị thất sủng trước vị thủ lãnh Cách mạng, Stalin đành phải xin lỗi, nhận lấy sự nhục nhã. Lênin vẫn loại một Koba « quá thô bạo » ra khỏi di chúc, nhưng khi Lênin qua đời, Stalin câu kết với một số khuôn mặt nặng ký khác để giành được ngôi vị cao nhất.
Stalin trở thành Stalin không phải từ năm 1913, khi ông lấy bút hiệu này để viết cho Pravda - stal (thép) ghép với vần cuối của tên Lênin. Nhưng đó là năm 1919, khi ông ta bẳt đầu dìm những ngôi làng trong lửa máu để khủng bố nông dân, bắt hàng trăm sĩ quan Sa hoàng...Vị bạo chúa đã cho viết lại lịch sử. Chẳng hạn năm 1904, lúc còn là một trong những thủ lãnh bôn-sê-vích Gruzia, Stalin đã phải viết tự kiểm trước các lãnh đạo Matxcơva, tờ kiểm điểm này được in 70 bản. Cuối thập niên 20, Stalin đã tung người đi khắp vùng Kapkaz để thủ tiêu bằng chứng. Năm 1906, Stalin bị Okhrana (mật vụ Sa hoàng) bắt rồi thả ra vì thấy chỉ là loại « cắc ké ». Khi lên cầm quyền, Stalin cố gắng làm biến mất những sự kiện bất lợi cho tên tuổi của mình, bản tiểu sử được tô vẽ lại kể từ thập niên 30.
Bỏ đói dân tộc Ukraina, đày đọa nhiều triệu con người
Nhà sử học Jean Lopez thuật lại, năm 1901 Stalin 23 tuổi, vô gia cư, sống ngoài vòng pháp luật, nghèo đến nỗi không có được một chiếc áo măng-tô, chọn lựa làm cách mạng, kiếm tiền bằng mọi cách, nhiều lần vào tù ra khám. Hai tính cách giúp ông ta sống sót : luôn nghi ngờ như một con chó sói, trên cái nền hoang tưởng. Thế giới bên ngoài Liên Xô đều đáng ngờ đối với ông ta.
Liên Xô nhiều lần tấn công các nước láng giềng. Theo Jean Lopez, sở dĩ Stalin tấn công Phần Lan, bên cạnh ý định chiếm đất, ông ta cũng cho rằng đi « giải phóng », muốn biến Phần Lan thành một nước cộng hòa xô-viết. Tương tự với Ba Lan, ba nước Baltic, Rumani. « Phòng bệnh hơn chữa bệnh » : cơ quan tình báo NKVD từ năm 1935 bắt đầu trục xuất người Phần Lan, Latvia, Estonia ra khỏi khu vực xung quanh Leningrad, rồi thanh lọc vùng biên giới với Ba Lan. Một triệu rưỡi người bị bắt trong đó 800.000 người bị hành quyết. Stalin bắt đi đày toàn bộ cộng đồng người Triều Tiên sống ở Vladivostok và Birobidjan, chỉ vì Nhật Bản chiếm bán đảo Triều Tiên, nên dân tộc bị trị này trở thành khả nghi.
Về « Holodomor » (diệt chủng người Ukraina bằng đói kém), ước tính gần 5 triệu người Ukraina đã bị chết vì đói. Stalin đặt ra những chỉ tiêu không tưởng và buộc phải giao nộp nông sản, không cho những nông dân đói khổ ra thành phố kiếm cái ăn nhưng xuất khẩu hàng triệu tấn ngũ cốc để ngoại tệ dùng cho công nghiệp hóa.
Cuối năm 1932 khi bí thư Kharkov là Rodion Terekhov than phiền về nạn đói, Stalin nói rằng « Đồng chí nên rời ghế, sang làm việc cho Hội Nhà văn, viết truyện cổ tích và những kẻ ngu ngốc sẽ đọc các truyện mà đồng chí viết ». Cũng như nhiều đồng nghiệp Ukraina, Terekhov sau đó mất chức ! Nhà sử học Nicolas Werth cho biết, những người hấp hối được cho lên tàu hàng chở đến vùng quê cách thành phố 50 km để không ai thấy người chết đói. Cũng tại Kharkov xảy ra nhiều vụ ăn thịt người, mỗi đêm gần 250 xác chết được thu nhặt, gan của họ bị đem làm patê bán ngoài chợ. Khi gặp đại tá Mỹ Robins năm 1933, Stalin nói rằng có vài nông dân chết đói nhưng là những kẻ lười biếng hoặc bị đánh cắp lúa mì.
Putin : Stalin thời hiện đại ?
Phải chăng Putin là Stalin ngày nay ? Le Point đặt câu hỏi. Sang năm, Vladimir Putin sẽ phá kỷ lục của Stalin – là người đứng đầu Liên Xô suốt 24 năm. Từ khi vừa lên ngôi, Vladimir Putin đã lợi dụng lịch sử vào mục đích chính trị, và trong số những « vĩ nhân » đã làm nên « bản sắc quốc gia » tất nhiên có Stalin.
Sách giáo khoa lớp 12 chỉ có hơn một chục dòng viết về gu-lắc, và nạn đói lịch sử trong thập niên 30 lại càng ít hơn. Ngược lại, gần 100 trang được dành cho chiến thắng của Liên Xô trong cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại do tổng tư lệnh Stalin lãnh đạo. Thế nên không có gì đáng ngạc nhiên khi hơn phân nửa thanh niên Nga từ 18 đến 24 tuổi chưa bao giờ nghe nói đến nạn đàn áp thời Stalin ; 70 % người Nga cho rằng Stalin có vai trò tích cực trong lịch sử đất nước (trong những năm 2000 tỉ lệ này chưa đầy 45 %).
Thoạt nhìn thì điểm giống nhau giữa Putin và Stalin trước hết là nạn tôn sùng lãnh tụ. Nhưng khác xa với sự sùng bái « nhà lý luận mác-xít lỗi lạc », những món hàng kỷ niệm in hình ảnh Putin để ngực trần, cỡi ngựa hoặc chạy mô-tô…mang nét thô lậu hơn. Cũng như chủ tịch Đuma nói rằng tài sản thực sự của nước Nga không phải là dầu khí mà là Putin… Một điểm tương đồng khác là có cùng cung cách mafia nơi cơ quan an ninh ; Putin cũng khủng bố, lăng nhục cấp dưới. Điểm giống nhau thứ ba giữa hai chế độ : ám ảnh bị phương Tây bao vây.
Tuy nhiên Putin không phải là một Stalin mới. Stalin, người tự nhận là truyền nhân của Lênin đã đưa ra một « tầm nhìn mác-xít » nhất định ; còn Putin dựa trên « kiềng ba chân » gồm Chính thống giáo, toàn trị cộng với dân tộc chủ nghĩa, trong đó quyền lực độc tài đứng trên tất cả. Có một khoảng cách rất lớn giữa Putin và « đường lối của Đảng » mà Stalin là hiện thân, tuy nhiên hai nhân vật này có cùng một thái độ ngạo mạn - như mọi bạo chúa ở đỉnh cao quyền hành.
Tập Cận Bình, bản sao « made in China » của Stalin
Tại châu Á, có một bản sao « made in China » : Tập Cận Bình rút ra bài học từ Stalin, là đảng nắm trọn quyền lực và kiểm soát toàn dân. Liên Xô bị thua trong chiến tranh lạnh vì quay lưng với chủ trương của Stalin, nên Trung Quốc phải coi đó là kinh nghiệm để có thể đối đầu với Hoa Kỳ - đó là lý luận của ông Tập.
Tự coi mình ngang hàng với Mao, Tập Cận Bình cũng ngưỡng mộ Stalin như người sáng lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Sau khi Mao chết, quan điểm phổ biến ở Hoa lục là chế độ Liên Xô sụp đổ do không thích ứng được với thời thế. Nhưng ngay từ khi lên ngôi, Tập Cận Bình áp đặt một cách nhìn khác. « Nghị quyết lịch sử » năm ngoái nhấn mạnh đến vai trò thống trị của đảng và khống chế người dân để chống lại « âm mưu » của phương Tây.
Cũng như Stalin, Tập dùng cách thanh trừng để loại những người chống đối và củng cố quyền hành trong đảng. Ông ta cũng thích được sùng bái, bắt giam hàng trăm ngàn người Duy Ngô Nhĩ trong các trại « cải tạo » như Statin từng đày ải người Tatar ở Crimée, tung ra cuộc đàn áp ý thức hệ nặng nề nhất kể từ vụ thảm sát Thiên An Môn năm 1989. Tập Cận Bình thẳng tay đập tan đòi hỏi dân chủ của người Hồng Kông, thiết lập hệ thống kiểm soát xã hội chưa từng thấy trong lịch sử. Tại Trung Quốc hiện nay cũng như Liên Xô hồi xưa, đảng không bị cạnh tranh về ý thức hệ, không có phe ly khai, ngay cả xã hội dân sự cũng chỉ là con ngựa thành Troie. Văn hóa nghệ thuật chỉ có thể tồn tại nếu phục vụ cho mục tiêu của đảng, nhồi sọ quần chúng.
Tuy vậy Tập Cận Bình không phải là Stalin, tham vọng quốc tế không có cùng tính chất. Stalin vận động cho cách mạng cộng sản thế giới, làm các nước lần lượt rơi vào vòng ảnh hưởng xô-viết ; còn Tập, như những gì người ta biết, chưa tích cực lật đổ chế độ nào bên ngoài. Bắc Kinh quảng bá mô hình các đại tập đoàn quốc doanh cộng với kiểm soát xã hội để thay thế cho dân chủ tự do, tạo điều kiện cho giai cấp trung lưu, và các nhà độc tài có thể ngủ yên. Sợi dậy liên kết giữa Stalin và Tập Cận Bình là niềm tin về một cuộc chiến đấu quyết liệt chống lại chủ nghĩa tự do phương Tây, và chủ nghĩa cộng sản sẽ ca khúc khải hoàn.
Shinzo Abe, nhà lãnh đạo Nhật quan trọng nhất từ nửa thế kỷ
Cũng về châu Á, The Economist nhận xét cố thủ tướng Shinzo Abe đã để lại dấu ấn sâu sắc ở châu Á và trên thế giới chứ không chỉ nơi nước Nhật. Cựu thủ tướng Úc Kevin Rudd gọi Shinzo Abe là nhà lãnh đạo Nhật Bản quan trọng nhất từ 50 năm qua.
Khái niệm « Ấn Độ-Thái Bình Dương tự do và rộng mở » là một phần trong di sản địa chính trị to lớn của ông Abe. Ông cũng là người thúc đẩy « Bộ Tứ », cố gắng tạo lập CPTTP sau khi Hoa Kỳ từ bỏ TPP. Ông là người nhìn ra rất sớm mối nguy cơ từ sự bành trướng của Trung Quốc. Lời đáp của Abe là tăng cường cùng lúc kinh tế và an ninh. Về đối ngoại, ông đưa một nước Nhật quen thu mình lại nay dấn lên phía trước, để ngăn cản Bắc Kinh phá hủy trật tự quốc tế lâu nay vẫn bảo đảm hòa bình thịnh vượng ở Đông Á.
Shinzo Abe đã công du 81 quốc gia từ châu Á đến châu Mỹ, phong cách nhiệt thành của ông gây được cảm tình với các nhà lãnh đạo các nước. Shinzo Abe cũng là nhà lãnh đạo châu Á đầu tiên nhận thấy với việc ông Donald Trump đắc cử, nước Mỹ đã thay đổi. Ông bay sang Washington, siết chặt tay ông Trump, tuy tân tổng thống Mỹ có ý định bỏ rơi những đồng minh truyền thống. Cái bắt tay nồng hậu, cũng như việc ông thân thiết ôm vai ông Modi đã giúp nhiều trong quan hệ với đối tác. Nhật Bản đầu tư vào các nước xung quanh, cung cấp một giải pháp thay thế cho « Sáng kiến Vành đai Con đường » của Trung Quốc.
Quay lại với xu hướng dân tộc chủ nghĩa ở Hoa lục, The Economist trong một bài viết khác nhận định Trung Quốc đang đi theo một con đường nguy hiểm. Tờ báo đưa ra ví dụ, sau khi cựu thủ tướng Nhật Bản bị ám sát, một người tên Zhang Beihai có 2,6 triệu « follower » trên mạng Vi Bác viết « Abe đã chết và thế là xong ». Một người khác nói thêm : « Cả gia đình ông ấy đáng chết ». Sima Nan, một trong những kẻ cực đoan nổi tiếng với 3 triệu người theo dõi đặt vấn đề : « Nếu đâm chết Thái Anh Văn có thể mang lại sự thống nhất trong hòa bình, mọi người có vui mừng không ? ». The Economist cho rằng Tập Cận Bình đang nuôi dưỡng một thế lực bất ổn, không phải lúc nào cũng có thể kiểm soát được.
Các kho đạn của Nga làm mồi cho HIMARS
Nhìn sang Ukraina, Le Figaro có bài phóng sự « Chín ngày dọc theo một Ukraina trong chiến tranh », Le Monde Magazine có « Nhật ký chiến tranh ». L’Obs nói về cuộc chiến chống lại tin giả, và sự thấm mệt của những người tình nguyện tiếp nhận người Ukraina tị nạn. Về mặt quân sự, The Economist nhận thấy quân đội Ukraina đã sử dụng rất hiệu quả hệ thống pháo phản lực HIMARS do Mỹ viện trợ để đánh vào các kho đạn Nga.
« Các kho chứa đạn của Nga là những nơi nguy hiểm nhất tại các vùng giao tranh. Đạn dược không được tích trữ một cách an toàn, nhiều loại từ thời Liên Xô gần quá đát khiến thuốc súng có thể phát nổ. Ưu tiên nhắm vào các khu này sẽ tạo áp lực logistic rất lớn lên Nga ». Đó là nhận xét trong một cẩm nang quân sự Mỹ năm 2016. Các tướng lãnh Ukraina nay đã chứng tỏ lý thuyết này là đúng.
Ngày 11/07, một kho đạn Nga ở Nova Kakhovka, miền nam Ukraina đã nổ tung một cách ngoạn mục. Những hình ảnh vệ tinh cho thấy cơ sở này đã hoàn toàn biến mất chỉ sau một đêm. Đây có thể là nạn nhân mới nhất của hệ thống pháo phản lực cơ động cao HIMARS mà Hoa Kỳ bắt đầu gởi cho Ukraina vào cuối tháng Sáu. Mỹ đã cung cấp 8 giàn phóng này và sẽ chuyển thêm 4 giàn khác, mỗi bệ phóng đa năng có 6 hỏa tiễn dẫn đường bằng GPS có tầm bắn 84 km.
Washington ngần ngại không muốn cung cấp nhiều trước khi Kiev chứng tỏ sử dụng hiệu quả, và cho đến nay Ukraina chừng như đã vượt qua được cuộc trắc nghiệm. Kho Nova Kakhovka là kho đạn thứ 19 bị tiêu hủy kể từ 27/06, theo số liệu của một nguồn mở; và đến 12/07 một kho đạn ở Luhansk trở thành nạn nhân thứ 20. Một vụ tấn công khác nhắm vào sở chỉ huy ở Kherson ngày 10/07 đã giết chết nhiều sĩ quan cao cấp, trong đó có thiếu tướng chỉ huy quân đoàn 22.
Vũ khí mới giúp cán cân nghiêng dần về Ukraina
HIMARS dường như đã được sử dụng dài theo tiền tuyến, từ Luhansk ở miền đông đến Kherson ở miền nam. Các chỉ huy quân sự Ukraina tự hào nói rằng loại vũ khí này đã làm phần thắng nghiêng về phía mình, sau khi mất Severodonetsk và Lysychansk ở Luhansk. HIMARS tỏ ra hiệu quả với nhiều loại mục tiêu, đồng thời pháo thủ được an toàn nhờ « bắn nhanh, rút gọn » trước khi địch trả đũa. Một đại tá nói rằng cần có thêm vài chục khẩu nữa mới có thể phản công thực sự.
Quân đội Mỹ thường phân tán và ngụy trang các kho đạn tại nhiều địa điểm. Ngược lại Nga chủ yếu dựa vào đường sắt để vận chuyển đạn dược và dùng sức người để chất lên xe tải, thường lập các kho lớn ở ga cuối. Mọi việc vẫn ổn cho đến khi HIMARS xuất hiện. Việc chia nhỏ các kho đạn cần rất nhiều thiết bị mới hoặc nhân lực, di chuyển chúng ra xa tiền tuyến cũng gây căng thẳng cho đội xe tải của quân đội vốn hạn chế.
Ngay cả khi Nga dời được kho khỏi tầm hoạt động của HIMARS, cũng chỉ mới tạm thoát nạn. Mỹ thận trọng không cung cấp cho Ukraina loại đạn có tầm bắn 300 km, nếu không, mỗi centimet vuông lãnh thổ bị Nga chiếm đóng đều nằm trong tầm hỏa lực của Ukraina. Kể cả Crimée mà Nga sáp nhập năm 2014, cầu Kertch nối bán đảo này với Nga, các chiến hạm ở Crimée và nhiều mục tiêu hấp dẫn khác.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.