Mô hình Sài Gòn của Jaume Torruella (từ trang “Modelismo BCN”) |
Những ai sống ở
miền Nam giai đoạn sau 30-4-1975 không thể nào quên những gì từng trải qua. Đó
là những chuỗi ngày không chỉ khốn khổ về vật chất. Biết bao người không thể
cầm được nước mắt khi chứng kiến cảnh hàng đống sách vở và băng đĩa nhạc bị
đốt. Một cuộc thảm sát văn hóa đã xảy ra. Không chỉ sản phẩm văn hóa, con người
của văn hóa cũng bị tận diệt. Nhà văn bị bỏ tù. Nhà báo bị “học tập cải tạo”. Nhà thơ đi đạp xích lô… Bất luận bị “tra tấn” và
“truy diệt” tàn bạo như vậy, văn hóa VNCH vẫn không chết!
Trong "Hồi ký dang dở", cựu đại tá
VNCH Dương Hiếu Nghĩa (từ trần ngày 14-4-2019) kể:
“Ngày
mồng 3 tháng 5/1975. Không có chuyện gì làm, tôi lang thang tản bộ quanh khu
chợ Sài Gòn, và đi lần về Thư Viện Quốc Gia, trong thâm tâm chỉ muốn gặp lại
một người bạn của tôi là anh Hữu, quản thủ Thư viện Quốc Gia (ông Phan Văn Hữu
– chú thích của MK). Có đến nơi mới thấy được cảnh mà cộng sản Bắc Việt gọi là
bài trừ “văn hóa đồi trụy”: Sau ngày
30/4/75, một ủy ban gọi là “Ủy ban bài
trừ văn hóa đồi trụy” ra đời. Thành phần gồm một cán bộ Đảng CSVN và sinh
viên học sinh chít khăn đỏ trên tay (mà người dân Sài Gòn gọi là mấy con “cọp 30”)…
“Văn hóa đồi trụy” được định nghĩa là tất cả những ấn
phẩm thuộc mọi lãnh vực chánh trị, kinh tế, lịch sử (nhất là lịch sử), giáo
dục, khoa học kỹ thuật, văn hóa, văn nghệ, phim, ảnh. v.v… đang được lưu hành
và sử dụng tại Việt Nam Cộng Hòa từ ngày 30/4/1975 trở về trước, được in, chép
hay thu vào băng nhựa, bằng tiếng Việt Nam hay bất cứ loại sinh ngữ ngoại quốc
nào (trừ chữ Tàu và chữ Nga).
Mục
tiêu mà các “ông cọp 30” nhắm vào
trước tiên là Thư viện Quốc gia (National Library) ở đường Gia Long. Tất cả
sách bìa cứng bìa mềm, gáy tím gáy vàng, dày mỏng gì cũng đều được mang ra
đường xé nát và đốt hết. Tội nghiệp cho mấy bộ tự điển và encyclopédia chữ Anh
chữ Pháp (trên 100 cuốn), và rất nhiều bộ sách quý thuộc các ngành công pháp
quốc tế, khoa học kỹ thuật, hàng không và cả khoa học không gian v.v… mà anh
Hữu đã tốn công sưu tầm trên 10 năm dài để làm giàu cho thư viện của đất nước,
trong phút chốc bị “cọp 30” xơi tái
hết!
Chúng
tôi đến gần lượm từng tờ của bộ encyclopédia lên xem mà ứa nước mắt nhưng không
dám hỏi thêm vì bị ngay một “cọp 30” khoảng
16 tuổi tới đuổi: “Đi đi, tiếc gì mà coi,
xé bỏ hết, đốt bỏ hết, nó là tiếng nước ngoài, của thực dân, của đế quốc đồi
trụy, ru ngủ đầu độc dân tộc. Ta độc lập rồi thì ta cần gì ba cái thứ nầy
nữa!”…
“Về
văn nghệ thì tất cả các bản nhạc in hoặc thu vào băng nhựa, nếu không phải loại
nhạc lai căng (lai nhạc Tàu) từ nhóm văn công miền Bắc mang vào, đều được liệt
vào loại “nhạc vàng của đế quốc Mỹ và tay
sai”, cấm lưu hành, xé đốt, hủy bỏ, ai lưu giữ sẽ có tội. Các kịch bản hay
các vở tuồng cải lương, hát bộ v.v... cũng phải được duyệt xếp loại lại.
Nói
tóm lại Bắc Việt chủ trương hủy bỏ tất cả những gì mà họ cho là tàng tích của “Mỹ Ngụy” từ 75 trở về trước, để đem
thay thế vào đó những gì mà miền Bắc đang có và đang áp dụng... Có nghĩa là
thay vì đẩy miền Bắc tiến lên để theo kịp đà phát triển của miền Nam, họ làm
mọi cách nhằm kéo lùi miền Nam thụt lùi lại vài chục năm, sao cho trình độ văn
minh tiến bộ của hai miền Nam Bắc phải ở cùng nằm ở một trình độ kém phát triển
như nhau”…
Câu chuyện của
ông Dương Hiếu Nghĩa là một chi tiết rất nhỏ trên bức tranh kinh khủng mà miền
Nam chứng kiến giai đoạn sau 30-4-1975. Hàng ngàn câu chuyện khác đã dệt nên
tấm thảm kịch mà ngày nay vẫn gây nhức nhối mỗi khi được nhắc lại. Nhà văn
Dương Thu Hương từng thốt lên trong uất nghẹn: “Vào
Nam tôi mới hiểu rằng, chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ vì nó chọc mù mắt con
người, bịt lỗ tai con người. Trong khi đó ở miền Nam người ta có thể nghe bất
cứ đài nào, Pháp, Anh, Mỹ... nếu người ta muốn. Đó mới là chế độ của nền văn
minh. Và thật chua chát khi nền văn minh đã thua chế độ man rợ. Đó là sự hàm hồ
và lầm lẫn của lịch sử. Đó là bài học đắt giá và nhầm lẫn lớn nhất mà dân tộc
Việt Nam phạm phải” (trích từ Ký 2, Đinh Quang Anh Thái, trang 178).
Tuy nhiên, văn
hóa VNCH đã không chết. Di sản văn hóa của một nền văn minh đã không hoàn toàn
thua “chế độ man rợ”. Sự kéo lùi lại “sao
cho trình độ văn minh tiến bộ của hai miền Nam Bắc phải ở cùng nằm ở một trình
độ kém phát triển như nhau” đã không thành công! Sau 44 năm, người ta có
thể thấy rõ điều này hơn bao giờ hết. Chưa bao giờ mà văn hóa VNCH – sản phẩm
của nền giáo dục khai phóng, của tinh thần sáng tạo tự do, của những tinh hoa
kết tụ từ ba miền Bắc-Trung-Nam – lại trỗi dậy mạnh mẽ đến như vậy.
Những nhà sách
lớn giờ đây đầy tác phẩm trước 1975 in lại (dù không ít quyển bị cắt xén kiểm
duyệt). Những quyển sách mới về miền Nam trước 1975 được ghi chép một cách tỉ
mỉ và công phu cũng xuất hiện liên tục. Nhạc “ngụy” đã chẳng còn được hát và nghe lén lút. Nó được hát trên
truyền hình và phát thanh, trong các cuộc thi “bolero đi cùng năm tháng”.
Phải! Văn hóa
VNCH chưa bao giờ ngưng “đi cùng năm
tháng” với dân tộc. Nó cho thấy dân tộc luôn lớn hơn cái gọi là “Đảng”. Nó
cho thấy kiểm duyệt chẳng có chút giá trị nào đối
với tâm hồn và cảm thụ của người dân. Nó, cuối cùng, cho thấy một điều
lớn nhất mà muốn hay không cũng phải thừa nhận: nền văn hóa nào có tính vượt
trội hơn thì nó thắng!
Internet và mạng
xã hội đã hỗ trợ rất nhiều trong làn sóng hồi sinh văn hóa VNCH. Nhiều trang
web sách cũ đã mọc ra. Các “fan page” sách VNCH, nhạc vàng, Sài Gòn xưa… cũng
xuất hiện nhan nhản. Một khảo sát nhỏ cho thấy cụ thể hơn. Trong khi trang
“Nhạc Đỏ chọn lọc” (facebook.com/nhacdochonloc/)
có 72 người like và 81 follow thì trang “Nhạc Vàng” (facebook.com/nhacvang/)
có 188.737 like và 209.515 follow (khảo sát được truy cập lúc 8 AM giờ Việt Nam,
ngày 26-4-2019).
Việt Nam sau “ngày thống nhất 1975” đã không thể
giống miền Bắc sau 1945. Một Việt Nam cộng sản, dù rập khuôn mô hình chính trị
Trung Quốc, đã không thể giống Trung Quốc. Chế độ cộng sản Việt Nam không thể
biến người dân Việt Nam thành một “đám ngu dân” như cách cộng sản Trung Quốc
muốn. Khi thống nhất đất nước, Trung Quốc chẳng có
một “miền Nam dân chủ” nào cả. Nỗ lực bắt chước Trung Quốc, đối với cộng
sản Việt Nam, là bất khả thi. Nền dân chủ non trẻ mà miền Nam thụ hưởng, sau
“ngày thống nhất”, đã trở thành một thứ “kháng thể”
giúp chống lại, bằng cách này cách kia, những áp đặt phi dân chủ và phi tự do,
đặc biệt trong văn hóa.
Yếu tố kháng thể
này đã âm thầm lan rộng. Nó tạo ra những ảnh hưởng nhất định. Nó ngấm ngầm
nhưng nó mạnh mẽ. Nó hồi sinh và nó phát triển tự nhiên. Không ai có thể chặn
nổi luồng gió trong lành này. Nó tạo ảnh hưởng ngay cả trong hệ thống của chế
độ toàn trị. Đã có lúc người ta “kiếm chuyện” bằng cách “đặt vấn đề” rằng “chiến trường anh bước đi là chiến trường
nào” (trong ca khúc “Con đường xưa em
đi” của nhạc sĩ Châu Kỳ) nhưng rồi cũng bất thành. Khi tuyên bố “cấp phép”
cho ca khúc “Ly rượu mừng”, người ta
chắc hẳn đã uống một ly cồn đắng nghét bởi phải đầu hàng trước sự tồn tại hiển
nhiên không chỉ của một ca khúc mà cả một nền văn hóa.
Ánh sáng văn minh
luôn lấn át bóng tối mọi rợ. Bản năng tự nhiên của con người là luôn tìm đến
ánh sáng. Cho đến thời điểm này, khi mà sự tự do hát, tự do nghe, tự do xem, tự
do đọc đã trở thành một sự bình thường đương nhiên, thì bất kỳ cản trở hay ngăn
cấm nào cũng đều vô ích và vô vọng. Dù muốn hay không, chế độ cũng cần phải
thừa nhận một tính chất chính trị căn bản: họ có thể cai trị độc tài nhưng họ
phải hiểu, trong bất lực, rằng không có bất kỳ công cụ văn hóa “toàn năng” nào
của nhà cầm quyền có thể “chọc mù mắt” và “bịt lỗ tai con người”!
MẠNH KIM 28.04.2019
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.