(Bauxite Vietnam 13/02/2014) Sáng ngày 27-1, Toà án
nhân dân TP.HCM đã tuyên án Huỳnh Thị Huyền Như lĩnh án chung thân, Vietinbank
( TMCP Công thương Việt Nam) không có trách nhiệm phải bồi thường gì cả.
Thế là vụ đại án lừa
đảo lên đến 4.000 tỷ đồng của siêu lừa Huyền Như cùng đồng bọn liên quan trực
tiếp tới ngân hàng Vietinbank đã chính thức khép lại. Và đã có nhiều đánh giá
cho rằng bản án được tuyên đã gây thất vọng nặng nề so với những gì mà dư luận
trông đợi.
Trước đại án này, nhà
báo tự do-Tiến sĩ Phạm Chí Dũng nhận định: “Trong khi thống đốc Nguyễn Văn Bình
luôn luôn hô hào người dân gửi tiền vào ngân hàng vì đó là một kênh an toàn.
Nhưng an toàn như kiểu Vietinbank thì có xứng đáng gọi là an toàn hay không?
Hay là quá rủi ro?”
Từ đại án này, TS Phạm
Chí Dũng bàn luận những vấn đề bất ổn sâu sắc của hệ thống ngân hàng đã và đang
xảy ra. Điều này sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới nền kinh tế đất nước và đời sống
người dân ra sao trong thời gian sắp tới. Liệu năm 2014, ngành Ngân hàng Việt
Nam có thể “mã đáo thành công” hay phải đối mặt với nhiều đổ vỡ, thử thách sinh
tử?
Phạm Bảo Ân: Xin ông cho
biết từ đại án Huỳnh Thị Huyền Như lừa đảo 4.000 tỷ đồng liên quan đến
Vietinbank (Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam) cho thấy những lỗ hổng gì
trong hệ thống ngân hàng hiện nay?
TS Phạm Chí Dũng: Từ vấn đề Vietinbank
nhìn rộng ra cho thấy những lỗ hổng và rác rất lớn trong hệ thống ngân hàng
hiện nay. Cách quản lý của ngân hàng như thế nào mà để xảy ra vụ đại án Huỳnh
Thị Huyền Như có thể lấy trọn gói 4.000 tỷ đồng của ngân hàng một cách ngon
trớn như thế? Và không chỉ Vietinbank mà nhiều ngân hàng khác cũng dính chùm
trong đó.
Đã có một đặc thù trong suốt thời gian vừa
rồi, ít nhất là 3 năm gần đây các ngân hàng đã gầy dựng quan hệ sở hữu chéo, sở
hữu cổ phần chéo với nhau và thông qua hệ thống liên ngân hàng, thị trường liên
ngân hàng và mang nợ chồng chéo lẫn nhau. Chính xác là như vậy. Số nợ đó ngay
cả bản thân Ngân hàng nhà nước cũng không nắm được và ngay cả Uỷ ban giám sát
tài chính quốc gia cũng không nắm được.
Trước đây, năm 2011, chính ông Lê Xuân Nghĩa lúc
đó là phó chủ tịch Uỷ ban giám sát tài chính quốc gia đã nói bản thân cũng
không nắm được vấn đề nợ xấu ngân hàng. Sau này chính ông Vũ Viết Ngoạn, chủ tịch Uỷ
ban giám sát tài chính quốc gia, cũng đánh giá Ngân hàng nhà nước cũng không
thể nắm được và không có thống kê nào chính xác từ các địa phương về vấn đề nợ
xấu của các ngân hàng.
Phạm Bảo Ân: Xin ông nói
rộng ra hơn về bản chất nợ xấu như thế nào hiện nay?
TS Phạm Chí Dũng: Nói rộng ra một
chút về vấn đề bản chất nợ xấu thì Ngân hàng nhà nước gần đây nhất có những báo
cáo nợ xấu trong bất động sản. Trước đó là 10%, rồi giảm xuống còn 8% và bây
giờ là 6%. Bộ Xây dựng cũng có con số nợ xấu bất động sản khoảng 6%. Nhưng giữa
năm 2012, lần đầu tiên Uỷ ban giám sát tài chính quốc gia công bố con số đáng
giật mình là nợ xấu từ 35-37%, tức là gấp 6 lần con số báo cáo của Ngân hàng
nhà nước và Bộ xây dựng.
Trước đó cuối năm 2011 có báo cáo rất chi tiết
về tình hình nợ và nợ xấu trong các ngân hàng hơn 100 trang, tôi nhớ là như
vậy. Thế nhưng không hiểu vì sao báo cáo đó không được công bố và dư luận cho
là báo cáo đó đã bị ỉm đi, bị ngăn chặn, thậm chí là bị ngăn chặn từ trên bàn
của các lãnh đạo Chính phủ.
Trở lại vấn đề Vietinbank, lúc đó Uỷ ban giám
sát tài chính quốc gia đã đặt vấn đề nợ xấu của Vietinbank nhưng không ai ngó
ngàng gì hết. Lúc đó Vietinbank chỉ là một trong những ngân hàng mà uỷ ban này
nghi ngờ về nợ xấu mà thôi. Nếu như lúc đó – cuối năm 2011 – mà giải quyết vấn
đề Vietinbank và giải quyết vấn đề nợ xấu, điều tra làm rõ, thanh tra làm rõ
thì chưa chắc đã xảy ra những vụ án như Huỳnh Thị Huyền Như. Lúc đó còn kịp để
ngăn chặn những bàn tay như Huỳnh Thị Huyền Như và chưa chắc đã có chuyện mất
đi 4.000 tỷ đồng. Nhưng sau đó người ta không làm gì cả và thời gian cứ trôi
đi, trôi đi và cho đến tháng 5-2012, tôi nhớ chính Vietinbank là một trong
những ngân hàng đầu tiên phải kêu lên về nợ xấu và đánh giá thực chất vấn đề
hoạt động của hệ thống ngân hàng không được ổn. Lúc đó họ chỉ nói là “không
được ổn”, không nói là yếu kém.
Nhưng đến cuối năm 2013 thì chúng ta thấy vấn
đề như thế nào, tình hình như thế nào? Cuối năm 2013, lần đầu tiên đã phải dùng
từ “đổ vỡ” đối với ngân hàng.
Phạm Bảo Ân: Ông có thể
giải thích cụ thể hơn về việc lần đầu tiên phải dùng từ “đổ vỡ” với ngân hàng?
TS Phạm Chí Dũng: Từ “đổ vỡ” đây
không phải chỉ được phản ánh từ giới phản biện độc lập. Giới phản biện độc lập
đã nêu ra vấn đề này từ cuối năm 2011 và đầu năm 2012. Và cuối năm 2013 thì
chính chuyên gia Võ Trí Thành nhắc lại lời một số tổng giám đốc ngân hàng đã
bắt đầu đề cập đến từ “đổ vỡ”. Và gần đây nhất là ai? Chính ông Bùi Quang Vinh,
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch đầu tư. Ông chính là người đã nêu vấn đề về khả năng có
thể vỡ nợ quốc gia.
Còn từ tháng 4-2012 thì trong Diễn đàn kinh tế
mùa xuân, ông Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện kinh tế Việt Nam mà tôi cho là
một trong những chuyên gia thức tỉnh, đã nói về vấn đề nợ và nợ xấu. Lúc đó ông
đã đưa ra con số từ 500.000-540.000 tỷ đồng nợ xấu, khác hẳn con số từ 135.000
tới 200.000 tỷ đồng nợ xấu mà Ngân hàng nhà nước báo cáo. Vấn đề nằm ở chỗ đó.
Cho nên vấn đề Vietinbank chính là một hệ quả
và một hậu quả của ngày nay mà thôi, được dẫn dắt từ quá khứ và nó sẽ trôi dạt
cho tới tương lai. Trôi dạt đi về đâu, mãi tới đâu thì không ai biết được, chỉ
biết rằng cứ để tình trạng như thế này thì nhiều vụ như Huyền Như sẽ tiếp tục
xảy ra.
“Trong khi thống đốc
Nguyễn Văn Bình luôn luôn hô hào người dân gửi tiền vào ngân hàng vì đó là một
kênh an toàn. Nhưng an toàn như kiểu Vietinbank thì có xứng đáng gọi là an toàn
hay không? Hay là quá rủi ro?”
TS Phạm Chí Dũng
Phạm Bảo Ân: Vậy cần đặt
lại, nhìn lại những vấn đề gì từ những sự việc như trên thưa ông?
TS Phạm Chí Dũng: Thứ nhất là vấn đề
trách nhiệm quản lý và điều hành hệ thống tín dụng của Ngân hàng nhà nước để
đâu? Thứ hai tại sao Tổng thanh tra nhà nước đã có một quyết định thanh tra đối
với Ngân hàng nhà nước, trong đó đặc biệt chú tâm vào vấn đề quản lý, điều hành
thị trường vàng và tín dụng từ đầu năm 2013, vậy mà cho đến nay vẫn chưa hề
công bố kết quả? Trong khi đó lịch thanh tra, kế hoạch thanh tra chỉ kéo dài
trong khoảng 6 tháng mà thôi nhưng đến giờ vẫn không công bố kết quả là sao?
Điều đó cho thấy chẳng lẽ lại có một sự “sở
hữu chéo” giữa cơ quan thanh tra với Ngân hàng nhà nước hay sao? Và chính thanh
tra nhà nước cũng đã đặt vấn đề về việc cuối năm 2011 tình hình tín dụng ngân
hàng đặc biệt lộn xộn. Lãi suất gần như buông trôi. Lúc đó là một cuộc đua lãi
suất cho vay và đua lãi suất tín dụng. Lãi suất tín dụng, tiền gửi lúc đó là
trên 20%, lãi suất cho vay ở thị trường liên ngân hàng, giữa ngân hàng và thị
trường doanh nghiệp lên tới 30%.
Những việc đó không chỉ vi phạm quy định mà
còn vi phạm pháp luật, đã làm cho các doanh nghiệp trở nên khốn đốn, đẩy nhanh
tình trạng các doanh nghiệp phá sản và buộc phải giải thể. Vào cuối năm 2011,
con số công bố doanh nghiệp buộc phải giải thể, ngừng hoạt động phá sản đã lên
đến 55.000, chỉ theo con số báo cáo chính thức.
Nhưng vào đầu năm 2013 thì chính Uỷ ban thường
vụ Quốc hội phải công bố con số giải thể và phá sản của các doanh nghiệp lên
tới chẵn 100.000 doanh nghiệp. Nhưng số thực tế có thể cao hơn nữa.
Trở lại vấn đề Vietinbank và liên quan đến vụ
đại án Huỳnh Thị Huyền Như, chính do cơ cấu “sở hữu chéo” đã không được minh
bạch hoá, không được kiểm tra, không được giám sát và không được xử lý tới nơi
tới chốn cho nên để xảy ra những vụ án như ngày nay. Và trong đó chính xác phải
nói đến trách nhiệm của Hội đồng quản trị và ban giám đốc của Vietinbank.
Phạm Bảo Ân: Ông đặt vấn
đề về “trách nhiệm” của Vietinbank trong vụ đại án Huỳnh Thị Huyền Như như thế
nào?
TS Phạm Chí Dũng: Tôi đặt câu hỏi:
tại sao toàn bộ thành viên lãnh đạo của Vietinbank lại muốn bỏ qua vụ Huỳnh Thị
Huyền Như nhanh chóng như vậy và họ không thừa nhận một trách nhiệm nào thuộc
về họ? Đó là vấn đề thứ nhất.
Vấn đề thứ hai là trách nhiệm của Vietinbank
đối với hoạt động tiền gửi của các doanh nghiệp và người dân như thế nào trong
vụ Huỳnh Thị Huyền Như? Liệu có thu hồi được 4.000 tỷ đồng đó hay không? Phần
tiền của Vietinbank là bao nhiêu? Phần liên quan tới hoạt động tiền gửi của
doanh nghiệp và của người dân, đặc biệt của người dân là bao nhiêu? Nếu không
làm rõ được vấn đề đó liệu có khơi mào và khôi phục niềm tin của công chúng đối
với thị trường tiền gửi hay không?
Trong khi thống đốc Nguyễn Văn Bình luôn luôn
hô hào người dân gửi tiền vào ngân hàng vì đó là một kênh an toàn. Nhưng an
toàn như kiểu Vietinbank thì có xứng đáng gọi là an toàn hay không? Hay là quá
rủi ro?
Và tôi muốn nêu lên một vấn đề nữa là thế này:
không phải vô cớ mà gần đây Bộ Chính trị giao cho ban Nội chính Trung ương giám
sát ngân hàng. Không phải vô cớ mà suốt từ đầu năm 2012 đến nay diễn ra hàng
loạt vụ bắt giam và khởi tố một số giám đốc chi nhánh ngân hàng, trong đó ngân
hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn (Agribank) là quán quân vô địch Việt
Nam về chuyện này.
Đây không chỉ là ngân hàng vô địch về mặt tiền
gửi mà còn là ngân hàng quán quân về số lượng giám đốc, cán bộ, lãnh đạo bị bắt
giữ liên quan tới các hoạt động vi phạm pháp luật trong hoạt động tín dụng. Và
gần đây nhất là ngân hàng Việt Á. Điều đó cho thấy có một động thái nào đó từ
Bộ chính trị hay nói cụ thể hơn là từ Ban Nội chính Trung ương đối với việc chi
phối giám sát dần các ngân hàng.
Và đặt thêm một câu hỏi: liệu động thái này có
liên quan gì tới sự xuất hiện của ông Nguyễn Bá Thanh ở phiên toà xử Dương Chí Dũng mà trong
đó Dương Chí Dũng
đã khai ra một mật báo của một người rất cao, được coi là thứ trưởng, thậm chí
là thứ trưởng thường trực của Bộ Công an, để Dương Chí Dũng bỏ trốn
hay không?
Thêm một yếu tố nữa là vừa qua Uỷ ban thường
vụ quốc hội đã đưa ra một dự thảo về điều chỉnh và bổ sung luật phá sản. Trong
đó đặc biệt quan trọng là chấp nhận cho phá sản các tổ chức tín dụng, ngân hàng
nằm trong các tổ chức tín dụng. Và chỉ cần Ngân hàng nhà nước dỡ bỏ tình trạng
kiểm soát đặc biệt của một tổ chức tín dụng nào đó và sau đó tổ chức tín dụng
đó vẫn không có khả năng thanh toán, vẫn mất thanh khoản thì coi như hiển nhiên
là tổ chức tín dụng đó phá sản.
“Cùng với tình hình
hoạt động rất lộn xộn, hàm chứa nhiều rủi ro là tình hình nợ xấu rất cao của
ngân hàng hiện nay. Và cho thấy những bất an của hệ thống ngân hàng trong tương
lai.
Và dường như các cơ
quan nhà nước và bản thân quốc hội, kể cả Bộ chính trị cũng đang phải tính tới,
thậm chí phải chấp nhận tình trạng phá sản của một số ngân hàng nào đó trong
tương lai. Và tương lai đó có lẽ không còn xa…”
TS Phạm Chí Dũng
Phạm Bảo Ân: Việc Ban
thường vụ quốc hội đưa ra dự thảo này cho thấy những điều gì hiện nay thưa ông?
TS Phạm Chí Dũng: Cho thấy rằng cùng với
tình hình hoạt động rất lộn xộn, hàm chứa nhiều rủi ro là tình hình nợ xấu rất
cao của ngân hàng hiện nay. Và cho thấy những bất an của hệ thống ngân hàng
trong tương lai.
Và dường như các cơ quan nhà nước và bản thân
quốc hội, kể cả Bộ chính trị cũng đang phải tính tới, thậm chí phải chấp nhận
tình trạng phá sản của một số ngân hàng nào đó trong tương lai. Và tương lai đó
có lẽ không còn xa.
Cũng đầu năm 2014, Ngân
hàng nhà nước đã ban hành một chỉ thị, dù là một chỉ thị thường kì đầu năm của
Ngân hàng nhà nước, nhưng đặc biệt nhấn mạnh nội dung không cho các ngân hàng
được tiếp tục tái cơ cấu nợ nữa trong năm 2014.
“Giữa chỉ thị của
Ngân hàng nhà nước với dự thảo phá sản các tổ chức tín dụng của Uỷ ban thường
vụ quốc hội có một mối quan hệ liên đới móc xích với nhau. Đồng thời cho thấy
tình trạng nợ xấu của các ngân hàng đã trở nên khó khăn tới mức Ngân hàng nhà
nước có lẽ không còn bao sân được nữa, không còn “bảo kê” được nữa…”
TS Phạm Chí Dũng
Phạm Bảo Ân: Nội dung này
nói lên những điều gì quan ngại trong thời gian tới nữa đây, thưa ông?
TS Phạm Chí Dũng: Cho thấy là giữa
chỉ thị của Ngân hàng nhà nước với dự thảo phá sản các tổ chức tín dụng của Uỷ
ban thường vụ quốc hội có một mối quan hệ liên đới móc xích với nhau. Đồng thời
cho thấy tình trạng nợ xấu của các ngân hàng đã trở nên khó khăn tới mức Ngân hàng
nhà nước có lẽ không còn bao sân được nữa, không còn “bảo kê” được nữa.
Những năm trước Ngân hàng nhà nước còn có thể
tái cơ cấu nợ cho các ngân hàng thương mại, bằng chứng là quyết định số 780 vào
tháng 4-2012 đã cho phép các ngân hàng tái cơ cấu nợ và giải quyết khoảng
235.000 tỷ đồng. Đến giữa năm 2013, Ngân hàng nhà nước lại một lần nữa đồng ý
cho các ngân hàng tái cơ cấu nợ. Nhưng bây giờ thì không còn nữa.
Vào giữa năm 2013, Ngân hàng nhà nước đã ra
thông tư 02 phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro đối với các ngân hàng.
Điều đó có nghĩa là nếu áp dụng thông tư này một cách triệt để với thời hiệu
khởi động vào giữa năm 2014 (tháng 6) thì các ngân hàng buộc phải sử dụng vốn
lưu động và trong vốn lưu động lại là tiền gửi của người dân để trích lập dự
phòng rủi ro. Và do đó sẽ làm ảnh hưởng rất nhiều tới vòng vay vốn của ngân
hàng và tình hình hoạt động cho vay cũng như đầu tư của các ngân hàng.
Sau khi Ngân hàng nhà nước ban hành thông tư
02, đến cuối năm 2013 nhiều ngân hàng đã phản ứng về chuyện đó. Họ cho rằng
thông tư này đã đẩy các ngân hàng vào thế rất khó khăn, thậm chí gọi là “thế
chân tường”.
Phạm Bảo Ân: Các ngân hàng
phản ứng dữ dội như thế phản ánh điều gì đây?
TS Phạm Chí Dũng: Điều đó phản ánh
là các ngân hàng đang ở thế quá khó rồi, đặc biệt là những ngân hàng nhỏ và
thậm chí kể cả những ngân hàng hạng trung. Nhóm ngân hàng G5, G12 có thể chưa
bị ảnh hưởng nhưng những ngân hàng nhỏ, trung sẽ bị thiếu thanh khoản đầu tiên.
Đó là vấn đề rất lớn, vấn đề thiếu thanh khoản
của ngân hàng đã được nêu ra từ đầu năm 2012 rồi. Chỉ thừa thanh khoản ở một số
ngân hàng lớn nhưng nhiều ngân hàng nhỏ vẫn thiếu thanh khoản. Bằng chứng là
các ngân hàng này vẫn âm thầm lén lút nâng cao lãi suất huy động để thu hút
tiền gửi từ người dân.
Hiện nay Ngân hàng nhà nước đã cho thấy đã
không thể bao sân được các ngân hàng thương mại nữa, và một trong những điều
kiện lớn nhất của dự thảo luật phá sản đối với tổ chức tín dụng là khi phá sản
thì phương án ưu tiên là phải thanh toán cho nhà nước. Không thấy có đề cập đến
thanh toán cho người dân mà là thanh toán cho nhà nước. Có nghĩa là những dư
luận đồn đãi về việc ngân sách eo hẹp, ngân sách cạn kiệt tiền mặt đang có vẻ
đúng.
Phạm Bảo Ân: Ông có thể
dẫn chứng vài điều thực tế chứng minh rằng ngân sách nhà nước, Ngân hàng nhà
nước đang cạn kiệt tiền mặt theo số lời đồn đãi gần như đang là sự thật?
TS Phạm Chí Dũng: Một trong những
chứng minh rõ nhất về việc Ngân hàng nhà nước, ngân sách gần như cạn kiệt tiền
mặt đó là năm 2012, 2013 đã không hề có bất kì một gói kích cầu nào để cứu vãn
nền kinh tế. Trong khi đó năm 2009 có một gói kích cầu lên đến 143.000 tỷ đồng
(tương đương 8,5 tỷ USD) và giải quyết tạm thời sự phục hồi của hai thị trường
là bất động sản và chứng khoán. Nhưng đó là hai thị trường đầu cơ và nền kinh
tế là ăn theo. Còn cả năm 2013 thì không có một thị trường nào được đầu cơ và
một nền kinh tế nào ăn theo cả.
Từ tất cả, hãy nhìn lại vấn đề ngân hàng, cuối
cùng cũng là ngân hàng. Có lẽ cần tới lúc phải xác định ngân hàng là một tác
nhân đã bắt gần như toàn bộ khối doanh nghiệp sản xuất, nền kinh tế và cả người
dân làm “con tin” của nó trong suốt những năm qua. Và ai trục lợi, hưởng lợi từ
việc đó? Chính là nhóm lợi ích ngân hàng.
Phạm Bảo Ân: Theo ông,
chúng ta phải giải quyết vấn đề “ngàn cân treo sợi tóc” mà ngân hàng đã gây ra
lâu nay ra sao đây, cứu vãn thế nào đây?
TS Phạm Chí Dũng: Bây giờ muốn giải
toả vấn đề này, cải thiện vấn đề này thì phải làm sao? Nhờ vào Ban nội chính
Trung ương giám sát ngân hàng hay là Ban Kinh tế Trung ương? Đó là hai ban quan
trọng của Đảng, đó là hai ban mà vừa qua không có một uỷ viên Trung ương Đảng
nào được trở thành uỷ viên Bộ Chính trị. Hay là cần có sự giám sát của người
dân, hay là đặt trách nhiệm trực tiếp với Thống đốc Ngân hàng nhà nước?… (im
lặng).
Xin cảm ơn ông đã dành
thời gian trả lời!
PB.A. – P.C.D.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.