Đại tá VNCH Nguyễn Công Vĩnh "học tập" trở về năm 1988. |
Hai bức ảnh chụp
cách nhau 13 năm, đều nói về ngày đoàn tụ của hai người tù, hai người cùng một
mẹ Việt Nam, nhưng từng bị đặt ở hai bên chiến tuyến.
Bức ảnh thứ nhất,
chụp ở ga Hòa Hưng năm 1988. Người đàn ông râu tóc bạc phơ trong ảnh, được xác
định, là Đại tá Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) Nguyễn Công Vĩnh. Ông từ trại cải tạo
theo đường xe lửa trở về, được vợ và con trai, tóc cũng đã điểm bạc, ra sân ga
đón [không rõ ai là tác giả bức ảnh tuyệt vời này].
Bức ảnh thứ hai
được nhà báo Lâm Hồng Long chụp ngày 4-5-1975. Người đàn ông trong ảnh là Lê
Văn Thức, tử tù Côn Đảo, khóc trên vai mẹ, bà Trần Thị Bính, quê ở xã Tam
Phước, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre. Ông Thức được cài vào Quân lực VNCH, tốt
nghiệp Trường Sĩ quan Thủ Đức, được chính quyền Sài Gòn đưa đi học khóa
"tình báo tác chiến" tại Malaysia. Về nước, với lon thiếu úy. Tháng
4-1968, Lê Văn Thức bị Tòa án binh vùng 4 chiến thuật tuyên tử hình vì tội
"hoạt động nội tuyến cho Cộng sản".
Thiếu úy nằm vùng Lê Văn Thức và mẹ năm 1975. |
Đoàn tụ chắc chắn
đều là mong ước của mọi gia đình. Nhưng họ khóc. Thật khó để nói, đó là những
“giọt nước mắt vui” hay là những giọt nước mắt tức tưởi. Ngày 30-4-1975, gia
đình thiếu úy Lê Văn Thức nằm trong số “triệu người vui”; gia đình đại tá
Nguyễn Công Vĩnh nằm trong số “triệu người buồn”.
Thật trớ trêu, cả
hai sau đó đều không có ai được hưởng ân huệ của hòa bình cả. Đại tá Nguyễn
Công Vĩnh bị đưa đi cải tạo suốt 13 năm. Chỉ cần nhìn những chiếc răng rụng của
người vợ một thời xinh đẹp của ông, nhìn mái tóc muối tiêu của con trai ông, đủ
thấy họ đã cơ cực thế nào kể từ khi “miền Nam giải phóng”.
Nhưng, nếu như
giọt nước mắt ở ga Hòa Hưng năm 1988 của gia đình đại tá Nguyễn Công Vĩnh đã
khép lại một bi kịch kéo dài hơn một thập niên. Thì, giọt nước mắt của mẹ con
thiếu úy Lê Văn Thức lại mở ra những ngày buồn trước mắt. Bức ảnh mang lại cho
nhà báo Lâm Hồng Long nhiều vinh quang nhưng không thể hóa giải tính khắc
nghiệt của chiến tranh hằn lên nhân vật.
“Với lý lịch
‘thiếu úy ngụy’, kể từ ngày hòa bình trở về, Lê Văn Thức không được bố trí công
tác mới. Mãi sau này, khi một cán bộ công tác ở UBND huyện Châu Thành, Bến Tre
tình cờ đọc được những bài báo viết về nhân vật trong bức ảnh ‘Mẹ con ngày gặp lại’ (1991), đã tìm đến
nhà anh Thức phỏng vấn và viết bài ‘Viên
thiếu úy mang bản án tử hình’ (đăng trên báo Đồng Khởi thứ Bảy). Nhiều
người ở địa phương mới biết đến các hoạt động trong quá khứ của anh. Và các cơ
quan chức năng mới nhiệt tình vào cuộc để rồi công nhận những đóng góp, hy sinh
có thực của Lê Văn Thức”[Theo Hoàng Bình Minh, báo CAND].
Cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt tiếp vợ chồng Tướng Nguyễn Cao Kỳ. |
Mấy hôm nay,
chương trình thời sự của VTV vẫn như 45 năm qua, sắp tới 30-4 là xe tăng, pháo
lớn lại nổ đinh tai nhức óc. Hơn 15 năm trước, Cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt, người
mất vợ và 3 người con trong chiến tranh, đã phải đi một vòng các tỉnh miền Tây,
gặp gỡ rất nhiều lãnh đạo, nhà báo địa phương, ông gần như khẩn thiết kêu gọi
họ đừng kỷ niệm 30-4 theo cách làm cũ nữa; đừng tiếp tục nã xe tăng đại bác vào
quá khứ.
Cuối năm ấy,
2004, ông trả lời tuần báo Quốc Tế, số Xuân: “Lịch sử đã đặt nhiều gia đình người dân miền Nam rơi vào hoàn cảnh có
người thân vừa ở phía bên này, vừa ở phía bên kia, ngay cả họ hàng tôi cũng như
vậy. Vì thế, một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại có hàng triệu
người vui mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là một vết thương chung của dân
tộc cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm nó thêm rỉ máu”.
Hàng chục nghìn
bản số báo Xuân đã in của tuần báo Quốc Tế, phải đình lại, bóc bài… Mãi tới
31-3-2005, quan điểm này của ông Võ Văn Kiệt về cuộc chiến trước 30-4-1975 mới
được đưa ra công chúng.
2006: Cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt tiếp một Việt Kiều, nghe chất vấn nhiều về hòa giải. Đỗ Trung Quân tranh thủ trách móc "Chú Sáu đưa tụi con đi TNXP 8 năm". |
Cũng năm ấy,
trước 30-4-2005, Thành ủy TP HCM gửi cho ông Võ Văn Kiệt “Dự thảo diễn văn” Bí
thư Thành ủy đọc tại Lễ kỷ niệm “30 năm ngày giải phóng miền Nam”. Ông vô cùng
thất vọng vì bài diễn văn vẫn lặp lại những ngôn từ sáo mòn, công thức; vẫn xe
tăng, vẫn đại bác… tiếp tục nã vào người anh em.
Đã 15 năm qua,
tuy liều lượng có bớt đi nhưng cách tiếp cận của bộ máy tuyên truyền vẫn không
thay đổi.
Khi nghĩ về ngày
kết thúc chiến tranh, cả Trịnh Công Sơn và Văn Cao đều khá lạc quan. Trịnh Công
Sơn tưởng rằng, những “giọt nước mắt vui”
có thể “lay lòng gỗ đá”. Văn Cao
cũng hy vọng, nước mắt “sưởi ấm đôi vai
anh”. Và ông tưởng: “Từ đây người
biết thương người/ Từ đây người biết yêu người…” Sự khác nhau giữa Văn Cao
và Trịnh Công Sơn, có lẽ ở chỗ, với một tâm hồn đầy trắc ẩn như Văn Cao, cho dù
thốt ra như vậy, nhưng các dự cảm buồn vẫn ám ảnh từng phách, nhịp trong “Mùa Xuân Đầu Tiên” của ông.
Bao giờ, quê
hương tôi mới hết những giọt nước mắt tức tưởi; bao giờ mới thực sự có “những giọt nước mắt vui”; bao giờ lòng
người Bên Thắng Cuộc mới thôi gỗ đá.
HUY ĐỨC
25.04.2020
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.