Đăng ngày:
Có nhiều điều đã làm nên tình đồng chí giữa Việt Nam và Trung Quốc,
hai quốc gia do đảng cộng sản lãnh đạo. Hai nước thường tuyên bố bên này
là chỗ dựa của bên kia, và nhắc lại thời kỳ anh em thân thiết, cùng
chung sức chiến đấu với đế quốc và thực dân. Tuy nhiên sự lãng mạn không
thể là nền tảng bền vững cho chính sách quốc gia.
Khi nói đến vấn
đề Biển Đông, yêu sách của Trung Quốc và Việt Nam không có điểm nào
chung – cũng như mọi yêu sách về vùng biển tranh chấp. Và cũng không có
thương thảo thực sự về chia sẻ chủ quyền, cùng sử dụng, khai thác hay
cùng hợp tác về bất kỳ phương diện nào.
Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á (ASEAN) đứng ngoài cuộc trong việc nhanh chóng giúp giải quyết
căng thẳng. Hoa Kỳ nhận thấy lợi ích của mình về tự do hàng hải trên
Biển Đông bị ảnh hưởng bởi yêu sách của tất cả các bên, và bên cạnh đó
mục tiêu của Mỹ còn là chận bước Trung Quốc.
Hoa Kỳ cũng tìm cách
có được một vùng đất để đặt chân sát cạnh Biển Đông, từ khi Philippines
có thái độ thất thường trong quan hệ quân sự với Washington. Trong số
các kịch bản khác có thể kể thêm việc bảo vệ các đối tác quốc phòng như
Nhật Bản, Hàn Quốc, đồng thời trợ giúp Đài Loan.
Các nhà quan sát cho rằng sự thất vọng của Hà Nội về Bắc Kinh sẽ
khiến Việt Nam xoay trục sang Hoa Kỳ - vốn mong muốn có chiến lược sâu
hơn và thậm chí quan hệ quân sự gắn bó hơn với các quốc gia chủ chốt ở
Đông Nam Á. Tuy nhiên Việt Nam hoàn toàn không thể chuyển nhanh sang
quan hệ với Mỹ, vì như vậy Trung Quốc có thể có phản ứng mạnh bất ngờ.
Thế nên Hà Nội tiếp tục nhấn mạnh nguy cơ nếu hoàn toàn thuận theo phía
Mỹ, chẳng hạn việc Mỹ định hình dân chủ hóa cho chính quyền cộng sản
Việt Nam. Hoa Kỳ trở thành quân cờ của Việt Nam nhằm đối phó với Trung
Quốc.
Ý kiến trong nước về chiến lược của Việt Nam rất khác nhau.
Có những tranh cãi trong xã hội về cách thức theo đuổi mục tiêu. Người
thì cho rằng chính quyền ngây thơ, vẫn còn chìm đắm trong lý tưởng xã
hội chủ nghĩa và tình hữu nghị anh em, sẵn sàng chấp nhận tạm thời mất
chủ quyền. Người khác thấy Hà Nội đã thận trọng đúng mức, muốn tránh
chiến tranh, nhưng cũng không sợ chiến tranh nếu đó là cần thiết.
Còn
bên trong chính phủ và đảng cộng sản, các quan điểm ít khác biệt hơn,
tập trung vào sự cần thiết sử dụng nhiều cấp độ chiến thuật và chiến
lược thay vì chỉ tỏ ra hiếu chiến. Trong hai thập niên qua, Việt Nam đã
tăng tiến rất nhiều trong việc siết chặt quan hệ với các quốc gia thành
viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc (mặt trận ngoại giao),
mời gọi hợp tác đa phương về quốc phòng (mặt trận quân sự), củng cố tăng
trưởng và nguồn lợi (vốn là nền tảng kinh tế của hai chiến thuật trên
đây).
Theo tác giả, phương thức thận trọng và chậm chạp của Việt
Nam đã bị các nhà lãnh đạo Bắc Kinh khai thác, vì vấn đề quan trọng là
chiếm giữ các đảo trên Biển Đông, biến thành một chuỗi căn cứ giúp Trung
Quốc có được sức mạnh cấm đoán tàu bè các nước đi qua. Thế nên Bắc Kinh
làm ngơ trước những phản kháng của Hà Nội, khiến cho sự chia rẽ trong
nội bộ Việt Nam càng sâu sắc thêm. Tuy nhiên, sự kiên trì của Trung Quốc
để một ngày nào đó sẽ giành chiến thắng toàn diện, đã khiến cho Việt
Nam không thể kéo dài chính sách lửng lơ không muốn nghiêng hẳn sang
phía khác. Có điều không ai biết được khi nào việc xoay trục này sẽ diễn
ra.
Tình hữu nghị anh em nếu được thổi bùng trở lại, mỉa mai thay
có thể giúp giải quyết vấn đề Biển Đông giữa Trung Quốc và Việt Nam.
Năm 2000, khi giải quyết vấn đề biên giới trên bộ và ký kết hiệp ước
phân định, hai bên đã có nhượng bộ lẫn nhau, và thỏa ước này được coi
như điển hình cho việc thực hiện chính sách « đồng chí tốt, láng giềng tốt ».
« Đồng chí tốt, láng giềng tốt » là phiên bản mờ nhạt của « môi hở răng lạnh », « tình anh em »,
những câu nói cửa miệng thường được sử dụng để mô tả mối quan hệ trong
thời kỳ các nhà sáng lập cộng sản Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh. Tuy
nhiên hiệp ước năm 2000 đã đánh bạt khả năng xảy ra một cuộc xung đột
trên đất liền, và hai bên có thể tiến tới.
Liệu Việt Nam và Trung
Quốc một lần nữa có thể viện đến tình hữu nghị anh em ? Tác giả David
Koh cho rằng bối cảnh năm 2000 rất khác với năm 2020, có rất nhiều sự
kiện đã diễn ra, đặc biệt có ba trở ngại lớn đang ngăn cản.
Trước
hết, Trung Quốc không còn coi Việt Nam là quan trọng về mặt tình hữu
nghị xã hội chủ nghĩa, trong khi Việt Nam vẫn còn cần tình liên đới này,
trong nỗ lực chống lại sự thôi thúc dân chủ hóa từ phía Hoa Kỳ. Từ cuối
thập niên 80, Trung Quốc đã tuyên bố với Việt Nam là quan hệ song
phương giữa đôi bên không phải là đặc biệt, không có gì khác với quan hệ
giữa Trung Quốc và các láng giềng khác.
Khó thể tin rằng sự tham
vấn giữa hai đảng cộng sản về kinh nghiệm chủ nghĩa xã hội và những bất
bình giữa đôi bên có thể tác động đến chính sách đối ngoại của Trung
Quốc với Việt Nam. Đặc biệt là trong việc chặn bớt tốc độ bành trướng
của Trung Quốc trên Biển Đông, mà Việt Nam vô cùng căm ghét. Tuy rất
nhiều người Việt Nam lên án các hành động của Trung Quốc trên biển, một
tỉ lệ tương tự người Trung Quốc có thái độ ngược lại. Tình hữu nghị và ý
thức hệ được đặt sau lợi ích quốc gia.
Trở ngại thứ hai là Việt
Nam không mang lại cho Trung Quốc lợi ích kinh tế hoặc chính trị quan
trọng nào, để có thể một lần nữa coi Việt Nam là anh em, hoặc nhường
bước trước đòi hỏi của Việt Nam. Mối nghi ngờ lẫn nhau vẫn nung nấu, và
quan hệ kinh tế không mạnh mẽ như tiềm năng thực sự.
Cũng như
những gì đã diễn ra trong quá khứ, Việt Nam chỉ là một phần nhỏ trong nỗ
lực của Trung Quốc nhằm ngăn chận sườn phía nam chống lại sự xâm lấn
của tư tưởng phương Tây. Mục tiêu rộng lớn hơn của Trung Quốc là đạt
được các lợi ích cốt lõi, quan hệ tốt với Hoa Kỳ và Nga. Nói cách khác,
Việt Nam chỉ mang lại lợi ích chiến lược nhỏ nhoi, trừ phi Hà Nội liên
kết chặt chẽ, hoặc đang trên đường liên minh với Hoa Kỳ hoặc Nga.
Trở ngại thứ ba : có thể Bắc Kinh đã bao vây Hà Nội bằng cách siết
rất chặt quan hệ với Lào, Thái Lan và Cam Bốt, tìm cách đẩy các nước này
ra xa khỏi Việt Nam. Bên cạnh quan ngại này còn có những đồn đãi rằng
Trung Quốc thiết lập căn cứ quân sự ở Cam Bốt, tăng cường hợp tác quân
sự và kinh tế với Thái Lan.
Lào vốn là căn cứ quan trọng của cách
mạng Việt Nam trong thời kỳ chống Pháp, cũng trở thân thiết hơn với Bắc
Kinh (nước này cũng có đường biên giới chung với Trung Quốc). Sự xâm
nhập của Trung Quốc vào Lào đã trở nên rất bền chắc. Tác giả tự hỏi
không biết lần tới, khi mặt trận phía bắc bị Trung Quốc đe dọa, Việt Nam
còn có thể dựa vào Lào để đảm bảo an toàn hay không.
Nói cách
khác, Trung Quốc đã khóa chặt lối ra bán đảo Đông Dương của Việt Nam.
Lợi ích của Việt Nam trong khu vực bị giảm sút, đóng vai trò thứ yếu sau
Trung Quốc, trừ phi Hà Nội nhanh chóng tăng cường năng lực quân sự và
quốc phòng.
Trong Sách Trắng quốc phòng năm 2019, Việt Nam tái
khẳng định chủ trương không tham gia liên minh quân sự nào, không cho
nước ngoài đặt căn cứ quân sự, không liên kết với nước này để chống nước
kia. Đồng thời thêm vào một khái niệm thứ tư là không sử dụng vũ lực,
hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Nhưng với Sách Trắng
quốc phòng mới, quan điểm đối nghịch có thể xuất hiện trong ngày một
ngày hai để tái định hướng chính sách quốc gia, nếu Việt Nam cứ liên tục
bị Trung Quốc o ép.
* Tác giả David Koh nghiên cứu về Việt
Nam và các vấn đề khu vực từ ba thập niên qua, hiện làm việc tại Viện
hợp tác hòa bình Cam Bốt.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.