Tôi sinh ra ở
miền núi nhưng hai mươi năm qua, số phận lại đẩy về miền biển. Thành phố tôi
đang sống là thành phố biển. Ngôi trường tôi học trước đây cũng nhìn ra biển và
văn phòng tôi đang làm việc hiện nay được xây trên mặt vịnh Boston, bên kia là
Đại Tây Dương bát ngát.
Thời gian dài
trôi qua, cuộc sống tạm quen dần nhưng ngày mới về đây thật là khó chịu. Nhất
là những ngày mưa bão, biển đổi thành màu đen sậm, xa xa một chiếc ghe đánh cá
đang về trễ, tăng thêm phần ảm đạm. Biển vừa làm cho tôi sợ hãi khi liên tưởng
đến những ngày còn lênh đênh hơn ba mươi năm trước, nhưng đồng thời cũng vừa có
một sức hút vô hình khiến nhiều khi tôi đã đứng hàng giờ đăm đăm nhìn ra biển.
Các triết gia
thường nói, trong mỗi phút giây chúng ta đang sống đều có bóng dáng của quá khứ
và dấu hiệu của tương lai. Tôi nghĩ họ nói đúng.
Đối với một người
Việt Nam tị nạn, quá khứ và tương lai không chỉ là bóng dáng và dấu hiệu thôi;
hơn thế nữa, là hai cuộc đời cùng sống, cùng tồn tại, cùng níu kéo nhau, xô đẩy
nhau vô cùng mãnh liệt. Một giọt mưa rơi, một chiếc lá rụng ngoài hiên, một
tiếng sóng vỗ vào bờ đá cũng làm chúng ta choàng thức dậy, lắng nghe như tiếng
có chân ai đang bước. Từ tâm cảm đó, nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng có lần đã viết
trong bài Từ tiếng hát tiếp nối của anh: “Bàn
chân đi, lòng vẫn mong về.”
Dù sao, các văn
nghệ sĩ vẫn là người may mắn vì ít ra họ có cơ hội để làm vơi bớt đi nỗi u uất
trong lòng qua thi ca nhạc họa, bao nhiêu đồng bào khác, không có năng khiếu
văn chương, âm nhạc, phải âm thầm chịu đựng. Nếu cuộc sống ở hải ngoại không
phải quần quật áo cơm, đầu tắt mặt tối, nhiều người Việt có thể đã chết vì
khủng hoảng tinh thần.
Những ngày còn ở
Việt Nam, khi nghe bài thơ, tôi chỉ nhớ mỗi câu đầu: “Ra biển chiều nay thấy màu máu đỏ,” được đọc trên đài VOA hay BBC
gì đó, mô tả cảnh vượt biên thật hãi hùng.
Hẳn nhiên tôi
không nghĩ vượt biên sẽ nhẹ nhàng như ngồi trên chiếc du thuyền nhưng tôi cũng
không cảm nhận được mức độ của kinh hoàng cho đến khi chính mình ngồi trên
thành ghe mong manh vừa chết máy và đang bồng bềnh trên biển tháng 6 năm 1981.
Thời gian chầm
chậm trôi qua. Một giờ rồi hai giờ. Tiếng cầu kinh đã dừng lại trên những vành
môi khô. Lời niệm Phật đã ngưng trong những thân xác mệt mỏi. Đất trời đều im
lặng. Không ai nói với nhau một lời nào. Trống vắng. Trống vắng ngay cả trong
suy nghĩ của con người. Nhớ thương, hờn giận đều biến mất. Tất cả như đang dọn
mình để bước vào một cuộc đời khác. Không ai tuyệt vọng bởi vì chẳng còn ai hy
vọng.
Và như thế cho
đến khi tiếng máy ghe lại nổ, cuộc hải hành tiếp tục.
Biển mang tôi về
lại bãi cát trắng và hàng dương liễu, nơi tôi đứng thẫn thờ nhìn chiếc trực
thăng bay xa, bay xa, mang theo người thân yêu nhất của tôi. Biển mang tôi về
lại phường Cổ Mân, Quận Ba, Đà Nẵng, nơi tôi sống những ngày đầu tiên không gia
đình với người anh họ.
Không ai biết và
sẽ không bao giờ ai biết, trên những đồi cát trắng dọc bờ biển Sơn Chà, từng có
một thằng bé mỗi chiều âm thầm đứng nhìn về phía biển để chờ đợi một tin vui.
Tin vui đó đã không bao giờ đến với nó.
Nếu mai mốt trở
về tôi nhất định sẽ đi tìm thằng bé.
Tôi nhớ rất rõ
thân hình ốm tong teo của nó khi đứng chờ những chuyến xe Mỹ chở hàng để xin
quá giang qua Đà Nẵng.
Tôi nhớ rất rõ
chiếc áo sờn vai thằng bé mặc trong mùa đông, chiếc chiếu rách, chiếc giường
tre nơi nó ngủ. Và tôi cũng nhớ nó, một thằng bé can đảm, nửa đêm thức dậy ra
đi, dù chưa biết sẽ đi đâu. Trên cồn cát trắng kia, sau ba mươi năm, vẫn còn in
dấu chân của nó như đã hằn sâu trong ký ức con người.
Tôi từng được dạy
rằng tôi là chủ nhân của chính mình chứ không ai khác và ý chí của tôi quyết
định cho hành động của tôi chứ không từ đâu khác.
Học và hiểu
thường không quá khó khăn nhưng thực tế không phải bao giờ cũng dễ dàng như
thế. Tôi đi qua cuộc đời này như một chiếc lá vàng khi chưa đủ tuổi để xanh.
Tôi bay trong giông bão và bay qua nhiều biển cả mênh mông, bao nhiêu lần đã
tưởng chừng rơi rụng và mục nát trong một góc chân tường nào đó.
Những chiều mưa
bên Đại Tây Dương, tôi cũng bàng hoàng nhớ lại Thái Bình Dương, nhớ lại ngày
trên biển, nhớ Manila, Palawan, nhớ đến những người không may mắn như tôi. Dọc
bờ biển đó, nơi tôi lắng nghe tâm sự của những em bé, câu chuyện về những đồng
bào bất hạnh, sự chịu đựng của những người sống sót, để rồi những tháng năm sau,
tôi ghi lại trong Em bé Việt Nam và viên
sỏi, Thưa mẹ chúng con đi, và những bài thơ khác.
Ảnh Trần Trung Đạo: Boston World Trade Center, nơi tác giả làm việc và viết bài. |
Trong những người
Việt Nam bất hạnh đó có người anh tôi đã mang ơn, người đã giúp tôi cơ hội vượt
biên. Những dòng chữ này như nén hương để tưởng nhớ về anh.
Tôi vẫn nhớ ngày
anh đưa chiếc ghe về, tôi hỏi anh sẽ dùng nó làm gì. Anh đáp gọn “vượt biên.”
Tôi cười không tin anh nói thật, khi nhìn chiếc ghe quá nhỏ, nhưng cũng chẳng
nói gì thêm. Chuyện tàu bè không phải là việc của tôi, biết hay không cũng
chẳng ích gì. Anh mướn người sửa lại, cắt nửa trên của chiếc ghe và đóng thêm
một lớp ván bên ngoài, sửa mũi và lái cao hơn. Anh mua một chiếc máy nhỏ ở
đường Bến Chương Dương đem về gắn vào.
Tháng sau tôi trở
lại sông, chiếc ghe cũ đã thành chiếc tàu có chiều dài mười mét và chiều ngang
chỉ một mét rưỡi. Tuy nhỏ nhưng có dáng dấp một chiếc tàu đánh cá hơn là chiếc
ghe đi sông trước đây. Anh bảo tôi vì bụng của tàu vốn là một chiếc ghe nên chỉ
có thể nối cao đến thế là cùng.
Tôi được mấy
người thợ đóng ghe đưa đi một vòng quanh sông. Ngồi trên sàn ghe nhìn nước sông
Nhà Bè màu vàng đục, một cảm giác bất an chợt dâng lên trong lòng khi nghĩ đến
ngày nào đó sẽ ra biển với chiếc ghe vỏn vẹn mười mét này. Anh bảo đừng sợ, sẽ
đi biển được. Anh dặn tôi xuống tàu sống với anh tài công và đóng vai thủy thủ.
Tôi lại cười vì tôi không rành bơi lội và cũng chưa hề làm nghề buôn bán trên
sông, trên biển bao giờ. Anh nghiêm giọng “Nhưng
nếu có chuyện gì xảy ra trên bờ thì chú mày cũng có thể đi thoát được.”
Tôi biết anh sắp
xếp như thế vì lo cho tôi nhưng một phần khác để tôi khỏi có cơ hội kéo đám bạn
bè của tôi theo. Dù đồng ý hay không, tôi cũng không có chọn lựa nào khác. Tiền
bạc và công sức đều là của anh. Anh xem tôi như một đứa em nhỏ. Mỗi chiều khi
anh ở ngoài sông về, chúng tôi thường hẹn nhau trong một quán rượu. Anh em
chúng tôi mướn chỗ để trò chuyện hơn là nhậu nhẹt vì cả hai đều không biết uống
rượu. Hoàn cảnh của anh rất giống tôi. Anh cũng lớn lên từ Đà Nẵng chiến tranh
và nghèo khó. Anh vào Sài Gòn học và học chung trường đại học với tôi, khác
nhau ở chỗ, khi anh lên bậc cao học tôi còn là sinh viên năm thứ nhất.
Chuyến đi khá bất
ngờ. Anh chỉ cho tôi đủ thời gian để về chào mẹ tôi. Anh không cho biết chính
xác ngày giờ vì ngại tôi sẽ dắt theo bè bạn. Anh biết tính tôi. Tôi hứa hẹn với
nhiều người. Một phần tôi chẳng tốn kém gì, phần khác vì tánh tôi hay chiều
lòng bạn. Những đứa được tôi hứa dắt theo đều bị bỏ lại. Điều này đã gây ra
nhiều giận hờn đáng tiếc giữa chúng tôi cho tới tận ngày nay.
Ngày đi, tôi đóng
vai thủy thủ thật. Anh hẹn mọi người tại một con lạch nhỏ ngoài bìa làng Chu
Hải. Tôi theo ghe đến Chu Hải và ngủ đêm lại trong con lạch để chờ khách vượt biên.
Trời gần sáng
nhưng không thấy ai đến cả. Chúng tôi thức dậy nhìn ra sông. Nước rút hết. Con
lạch khô như một con đường làng hẹp. Chiếc ghe vượt biên của chúng tôi nằm
chênh vênh bên bờ lạch. Chiếc bánh lái nhỏ như chiếc quạt để bàn đang phơi mình
trên cạn. Nhìn bánh lái, tôi thầm tự hỏi, với món đồ chơi trẻ em này làm sao
chẻ nổi sóng Biển Đông. Mãi đến sáu giờ sáng, nước bắt đầu dâng lên và khách
vượt biên không biết từ đâu cũng dần dần xuất hiện.
Mọi người lo ngại
nhìn chiếc ghe nhỏ nhoi trong lúc mặt trời sắp mọc. Công an và du kích có thể
đến bất cứ lúc nào. Nhiều người lo sợ bỏ về. Anh tài công lẽ ra phải lái chiếc
ghe cũng bỏ cuộc. Nhưng nhiều người khác, trong đó có tôi, quyết chí ra đi.
Một người khách
tự động nhận trách nhiệm lái chiếc tàu. Và như thế, chúng tôi đi. Chiếc ghe nhỏ
trôi bồng bềnh trên Biển Đông hai ngày hai đêm. Mệt mỏi nhiều hơn là đói khát.
Cuối cùng sau bốn chục giờ và một lần máy chết, tưởng như sẽ chết, chúng tôi
được một tàu hải quân Mỹ vớt.
Tôi nhận thư anh
trong thời gian tạm trú ở đảo Palawan. Anh đang lo đóng một chiếc ghe khác, lớn
hơn và chắc chắn hơn nhiều so với chiếc ghe bầu sửa lại mà tôi đã đi. Chúng tôi
hẹn gặp nhau ở đảo, nếu không kịp, hứa sẽ tìm nhau dù ở nơi nào. Trong lá thư
cuối cùng, anh báo tin đang chuẩn bị ra đi.
Anh ra đi thật
nhưng không bao giờ đến. Bà con anh ở Đà Nẵng và khách vượt biên gần cả trăm
người cùng đi với anh cũng không bao giờ đến. Anh đã chết như hàng trăm ngàn
đồng bào khác đã chết trên Biển Đông.
Tôi mang ơn anh
nhiều lắm. Không có sự giúp đỡ của anh, hôm nay có thể tôi còn lang thang một
nơi nào đó ở Việt Nam. Tôi đặt tên đứa con gái út của tôi cùng tên với con gái
duy nhất của anh để kỷ niệm cho tình anh em tuy ngắn ngủi nhưng đầy biến cố của
chúng tôi.
Bao nhiêu người
Việt đã chết trên biển khơi như anh. Theo ước lượng của nhiều cơ quan thiện
nguyện quốc tế, khoảng nửa triệu người đã chết trong gió bão, trong đói khát,
trong bàn tay hải tặc từ sau 1975. Thật ra, con số đó cũng chỉ là con số tượng
trưng, cần đó để điền vào khoảng trống của một bảng thống kê.
Tôi tin không ai
biết và sẽ không bao giờ biết được bao nhiêu người Việt Nam đã chết trên biển
Đông từ sau mùa bão lửa 1975.
Thỉnh thoảng
chúng ta vẫn đọc những lời kêu gọi, những giải sáng tác văn thơ, tự truyện,
khuyến khích đồng hương còn sống sót, viết lại, kể lại cuộc đời tỵ nạn, kinh
nghiệm vượt biên như những bài học lưu truyền cho hậu thế. Vâng, đó là những cố
gắng tốt nhưng ai sẽ là người cầm bút viết ra đây.
Tôi và một số bà
con khác đã kể lại vì chuyến đi của chúng tôi tuy hồi hộp nhưng không gây nhiều
thiệt thòi, mất mát. Trong lúc những câu chuyện cần được nghe, những bài học
cần được kể lại, sẽ không bao giờ được kể.
Làm sao tả được
cảnh những người phụ nữ Việt Nam nằm trần truồng trên sàn ghe như những con cá
vừa được kéo lên, đang chờ mổ bụng, ướp đá?
Làm sao tả được
tâm trạng của người chồng bị trói chặt, nhìn người vợ mang thai bị hải tặc hiếp
dâm trước mắt?
Làm sao tả được
tiếng kêu của em bé lên sáu, lên năm khi nhìn xác mẹ mình bị ném xuống biển
sâu?
Làm sao tả được
cảnh người thoi thóp phải ăn thịt người vừa chết để kéo dài sự sống trên chiếc
ghe chết máy lênh đênh nhiều tháng trời trên Biển Đông?
Không, những câu
chuyện vượt biên bi thảm là những viên đá nghìn cân đè nặng lên số phận của
đồng bào bất hạnh và sẽ muôn đời ở lại trong lòng biển.
Bên trong chiếc
cửa kính dày của văn phòng làm việc, vào những ngày giông bão, những ngọn sóng
lớn đánh vào bờ đá, tung bọt cao đến tận chân tường, gió thổi mạnh đến nỗi xé
nát những tấm bảng quảng cáo cắm dọc bến tàu. Những lần như thế, tôi ngồi tưởng
tượng đến những điều kỳ lạ có thể đang xảy ra trong vùng nước phía bên kia. Tôi
cảm giác như có một xác chết đang trôi, một bàn tay vừa nhô lên mặt nước, một
tia máu vừa phọt ra từ miệng cá.
Tôi cố lắng tai
nghe nhưng không nghe gì cả. Lớp kiếng cách âm dày đã ngăn giữa căn phòng ấm áp
nơi tôi làm việc và giông bão phía bên kia như ngăn cách giữa hiện tại no đủ và
quá khứ đầy thiếu thốn của tôi.
Nhưng nếu không
có lớp kính dày kia liệu tôi có nghe được gì không?
Vẫn có thể là
không.
Cuộc sống xứ
người đã cuốn tôi đi xa, xa đến mức nhiều khi không còn biết mình là ai nữa.
Tôi vẫn đọc mỗi ngày bao nhiêu tin buồn về đất nước, tôi đã thấy mỗi ngày bao
nhiêu cảnh bất công đè nặng lên số phận đồng bào. Nhưng, ngoài trừ những bài thơ,
bài văn viết khi nhàn rỗi, tôi vẫn dửng dưng nhìn bàn tay của những em bé Việt
Nam năm sáu tuổi đang vẫy mời những khách mua dâm ở Campuchia, và tôi vẫn lạnh
lùng nhìn giọt nước mắt của những cô gái Việt Nam đang chảy trên đường phố Đài
Loan.
Phải chăng con
đập áo cơm đã ngăn đôi dòng sông lý tưởng thời tuổi trẻ của tôi?
Phải chăng hàng
rào danh lợi đã che khuất đi khả năng để biết lắng nghe tiếng kêu gào thống
thiết của quê hương và cả tiếng gọi của chính trái tim mình?
Có thể cả hai.
Biển, vì thế, vẫn lặng yên, câm nín như nỗi đau của đồng bào tôi và đất nước
tôi.
TRẦN TRUNG ĐẠO21.04.2020
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.