Ai muốn học thứ tiếng, thứ chữ gì, thuộc quyền cá nhân, đây không bàn.
Nhưng có những kẻ biện minh cho thói tôn sùng "chữ Hán", "tiếng Hoa" như ri: Hiện tại người Hàn, Nhật vẫn sử dụng chữ Hán song song với hệ thống chữ viết của họ sáng tạo ra / ở Malaysia, quốc ngữ hiện tại của họ là tiếng Hoa, Anh, Hindu...
Ai biểu nói ra (đại loại như trên), nên thiên hạ biết tỏng là "dốt mà đòi nói chữ"!
Cần phải phân định "văn tự chính thức" dùng ở cấp quốc gia, với tiếng nói / chữ viết của các tộc người sống ở quốc gia đó.
Chẳng hạn, Việt Nam - văn tự chính thức là CHỮ QUỐC NGỮ, tiếng nói chính thức là TIẾNG VIỆT. Tỉ như tộc người Hoa (người Việt gốc Hoa) ưng dùng chữ Hán, nói tiếng Hoa đâu ai cản nhưng chữ Hán không phải là văn tự chính thức. Cũng rứa, những ai ở Việt Nam mà ưng... nói bằng tiếng Anh, tùy ý, nhưng tiếng Anh không phải là tiếng nói chính thức.
(1) Ở Malaysia, tiếng Malaysia ("bahasa Malaysia") hiện nay được viết bằng chữ cái Latin, bộ chữ này gọi là "bộ chữ Rumi" (trước đây họ từng dùng bảng chữ cái Ả Rập, gọi là "bộ chữ Jawi"). Bộ chữ cái "Rumi" (chữ cái Latin) đang được dùng phổ biết nhứt tại Malaysia.
(Hoa, Anh, Hindu... tùy tộc người ưng nói thì nói, nhưng không phải là "quốc ngữ" của Malaysia, nhắc lại để đừng nói bừa: Văn tự chính thức là "Rumi" (chữ cái Latin), tiếng nói chính thức là "bahasa Malaysia").
(2) Hiện nay, người Hàn dùng văn tự chính thức cấp quốc gia là "Hangul", còn gọi "Hangugeo" 한국어 . Họ không dùng Hán tự làm chữ viết chính thức (song song).
(3) Hiện nay, người Nhựt dùng văn tự Kan-ji (Hán tự) CHÈN vào trong văn tư biểu âm hiragana (ひらがな) và biểu âm katakana (カタカナ).
Tức là họ không dùng Kan-ji (Hán tự) làm chữ viết chính thức đứng mình ên (cùng tồn tại song song với hai hệ chữ viết biểu âm). Mà buộc văn tự biểu ý là Hán tự "chèn vào", "kẹp vào", không tách rời với chữ viết biểu âm.
[Đó là chưa kể người Nhựt dùng chữ Hán theo cách của họ, khác với cách dùng của người Hoa (và, dĩ nhiên, không nói tiếng Hoa mà bằng tiếng Nhựt) ]
* Đây, câu nói dưới đây dành cho những kẻ ngờ nghệch mà đòi lòe, bịp:
- Tiếng Malaysia, bằng văn tự chính thức Rumi => "Sangat Bodoh".
- Tiếng Hàn, bằng văn tự chính thức Hangul => 매우 멍청한 (đọc là /maeu meongcheonghan/)
- Tiếng Nhựt, bằng văn tự chính thức (hiragana, chèn chữ Hán vô trỏng) => とても愚かな (đọc là /totemo oro kana/).
Mấy hàng chữ trên, mang cùng một nghĩa, là: ngớ ngẩn quá sức (rất ngớ ngẩn).
(Cái chữ Hán 愚, Nhựt đọc "oro", âm Hán-Việt là: "ngu").
NGUYỄN CHƯƠNG 17.12.2023
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.