Vũ Thư Hiên : Kể chuyện này lại da diết nhớ "Giăng Van-giăng gọi bằng Cụ" Tôn Thất Tần nay đã không còn. Tặng Giáng Tiên và Trần Mạnh Hảo.
Có lần, trong bữa ăn tối với bè bạn, nhà văn Nga Anton Tchekhov nói: “Các ông kêu viết khó ư? Không hề! Nếu có cái khó thì đó là khi ngồi trước trang giấy anh định viết cái gì, để làm gì? Tôi ấy à, tôi có thể viết ngay một truyện ngắn về lọ mực trên bàn kia, nếu tôi muốn. Vâng, về cái lọ mực ở trước mặt các vị kia kìa”.
Tôi thuật lại không đúng câu chữ, nhưng tôi nhớ và rất thú giai thoại ấy. Lọ mực, hay bất cứ vật nào khác, chỉ là cái cớ cho sự sáng tạo vốn nằm sẵn trong ký ức nhà văn. Tchekhov viết dễ là nhờ vốn sống phong phú và trí tưởng tượng dồi dào.
Chuyện lọ mực của Tchekhov làm tôi nhớ tới những đồ vật tầm thường từng ở với tôi một thời gian rồi biệt tăm biệt tích, nhưng kỷ niệm về chúng thì cứ còn mãi. Chúng nhắc ta nhớ đến một khúc nhôi nào đó trong đời.
Thí dụ, tôi có kỷ niệm về một đôi tất. Nó là vật tầm thường. Nhưng với tôi, nó đáng nhớ. Như một biểu tượng cho một thời.
Đầu đuôi là thế này:
Năm 1963 ngành đóng tàu Ba Lan cho hạ thủy một con tàu có độ giãn nước 15.000 tấn, tức là một tàu chở hàng loại nhỏ, có khả năng cập các bến cảng nông.
Không biết ông Gomulka, tổng bí thư Đảng Cộng sản Ba Lan hồi ấy, hay một ông bí thư nhà máy đóng tàu nào đó ở thành phố Gdansk, đã nảy ra ý nghĩ đặt cho con tàu mới đóng cái tên Hà Nội. Tác giả cái tên ấy hẳn không ngờ mình đã tặng ngành tuyên giáo Việt Nam một cơ hội bằng vàng.
Nhân dịp con tàu cập bến Hải Phòng, các báo thủ đô đều chạy tít lớn trên trang nhất, với hình một cô gái Việt bé nhỏ mặc áo dài đập chai sâm banh vào mạn tàu trong lễ xuống đà của nó.
Tờ báo của chúng tôi không thể kém các đồng nghiệp. Nó là tờ báo duy nhất xuất bản bằng các thứ tiếng nước ngoài, được chính nguyên tổng bí thư đảng khai sinh. Ông vẫn chú mục theo dõi nó ngay cả khi đã mất chức vì một tội ác mà người ta gọi cho sang là một sai lầm.
Chủ nhiệm gọi tôi vào phòng. Ông trịnh trọng trao cho tôi thực hiện phóng sự về sự kiện trọng đại này.
- Phải hết sức cẩn thận trong giao tiếp. “Tỏ tình thân, giữ khoảng cách” – ông nghiêm trang dặn tôi bằng phương châm kiểu Tàu – Liệu đấy, kẻo rắc rối.
Rắc rối nghĩa là thế nào, chỉ những người từng sống ở Việt Nam thời kỳ đó mới hiểu. Sểnh chân sểnh tay không sao, chứ sểnh miệng là lôi thôi lắm. Nhẹ thì phê bình kiểm thảo, chuyển công tác. Nặng, có thể đi tù.
Ngày ấy, những năm 60 thế kỷ trước, nội bộ cái gọi là phe xã hội chủ nghĩa rất lủng củng. Trung Quốc xa xả chửi Liên Xô là “đồ xét lại”, Liên Xô nhiếc Trung Quốc là “lũ giáo điều”. Trong từ vựng cộng sản, “giáo điều” và “xét lại” đều xấu, kiểu như tim la và lậu trong cách nói dân dã.
Vì lẽ gì hai nước lớn ném c*t vào mặt nhau như thế chỉ có “trên”, tức là các vị cầm cân nảy mực trong đảng cầm quyền mới biết, chứ dân chúng thì mù tịt. Thậm chí cánh nhà báo thóc mách cũng chỉ biết lơ tơ mơ rằng hai bên có mâu thuẫn gì đó về lý thuyết cộng sản, chứ dưới tấm chăn lý thuyết ấy còn có cái gì nữa thì cũng chỉ là đoán mò. Thậm chí chuyện hai bên nổi điên nã súng vào nhau ở hai bờ sông Ussuri chúng tôi cũng không biết.
Chân lý được phát hành theo đại lý. Bộ Chính trị phổ biến tin tức có giới hạn cho Trung ương, Trung ương cắt bớt rồi phát xuống tỉnh, tỉnh cắt thêm ít nữa, cho xuống huyện. Càng xuống thấp sự thật càng teo tóp. Những người thọc mạch nhất nếu có biết gì hơn khẩu phần tinh thần được phân phối cũng chỉ dám xì xào về một mảnh nào đó mà thôi. Chớ có dại mà đến gần đám cháy.
Ở Hải Phòng, nhà văn bạn tôi, thận trọng dặn tôi:
- Nhớ phải lấy giấy giới thiệu của thành ủy, ủy ban, cả công an nữa, cho nó chắc! Cảng là cảng, mà cũng là biên giới, lên tàu nước ngoài là dễ rách việc lắm đấy.
Tôi sợ giấy tờ như tổ tiên chúng ta sợ sấm sét. Tôi ngán các thứ giấy tờ lắm lắm.
Cùng đi với tôi có Văn Sinh, phóng viên nhiếp ảnh. Tôi xin Văn Sinh đi cùng là để phòng ngừa bất trắc. Lên tàu Ba Lan, đồng nghĩa với bước chân vào lãnh thổ một nước không phải là “mác-xít-lê-nin-nít chân chính”, có Văn Sinh đi cùng, tôi yên tâm. Anh là nhân chứng có giá khi hữu sự. Xuất thân thợ ảnh phố huyện, là công nhân theo cách hiểu của các chính trị gia nội hóa, anh là người thuộc giai cấp lãnh đạo cách mạng. Ngoài chức phó bí thư chi bộ, phó chủ tịch công đoàn, anh còn là chiến sĩ thi đua toàn ngành văn hóa. Đảng không tin anh còn tin ai?
Trời nắng như đổ lửa. Phố xá râm ran tiếng ve sầu.
Chúng tôi trình giấy tờ ở cổng cảng. Vào. Đi bộ một lát, thấy con tàu Hà Nội chình ình trước mặt. Bên trên, mấy thủy thủ cởi trần trùng trục, đỏ như tôm luộc, đang làm việc.
Đã tưởng qua cổng cảng rồi, trình giấy rồi, thì cứ thế lên tàu, hóa không phải. Ở bốt gác đặt dưới cầu tàu, chúng tôi lại phải trình giấy lần nữa. Anh lính gác lật ngang lật dọc hai cái thẻ nhà báo rồi đủng đỉnh gõ kẻng. Đốc gác đủng đỉnh ra, cầm giấy mang đi.
Chúng tôi khô cong dưới trời nắng. Cuối cùng, rồi đốc gác xuất hiện, lười biếng phẩy tay: “Đi đi. Khi ra sẽ nhận lại giấy tờ”.
Khi đi tới cảng tôi đã hình dung trong đầu kế hoạch làm việc: gặp các sếp của con tàu, trình bày mục đích xong, thì ra ngoài cảng ăn trưa, chiều lên tàu làm việc tiếp. Chờ xét giấy mất cả tiếng đồng hồ – thế là lỡ bữa.
Thuyền trưởng Kazimierz, chắc chắn là một tên “xét lại”, may thay, lại là người hiếu khách. Cao lớn, ngộc nghệch, tươi bưởi, sau cái bắt tay chặt, anh gọi nhà bếp mang bia và cá vobla lên đãi chúng tôi. Cùng tiếp khách với thuyền trưởng còn có vài sĩ quan trên tàu.
Cuộc tiếp xúc không có gì căng thẳng giữa hai bên xét lại và mác-xít lê-nin-nít chân chính. Văn Sinh lúc đầu còn nghiêm trang đúng cách, nhất nhất tuân theo lời dặn của cấp trên, nhưng bia Pilzen đã nhanh chóng xoá đi rào cản vô hình của cuộc đấu tranh một mất một còn giữa hai đường lối cộng sản.
Tối hôm ấy chúng tôi lại được một bữa thịnh soạn nữa, lần này với đông đủ sĩ quan, thủy thủ. Ngoài hai đứa tôi ra, khách lên tàu còn có các quan chức trung ương và địa phương đến chào mừng con tàu mang tên Hà Nội.
Bếp trưởng tiếp khách bằng những món Ba Lan truyền thống. Trên bàn có đủ loại rượu không phải xã hội chủ nghĩa, mua ở các bến không xã hội chủ nghĩa.
Văn Sinh quên bẵng tinh thần cảnh giác. Đây là lần đầu tiên anh được dự một bữa ăn với người nước ngoài. Những buổi chiêu đãi quốc tế ở Hà Nội chỉ có các bậc chức sắc đi dự, Văn Sinh ngồi nhà. Anh thuộc loại người ra đời để được sai phái. Người ta hào phóng khóac lên cổ anh vài vòng nguyệt quế để che khuất cái ách anh mang.
Sau vài ly vodka Văn Sinh đã chân nam đá chân chiêu, nhưng vẫn bấm máy liên tục. Anh không buồn theo dõi nét mặt của tôi. Khi người ta uống rượu và cười nói ầm ầm thì chắc chắn không phải chuyện chính trị rồi. Thêm vài ly rượu mạnh nữa, anh ợ to, cười ngớ ngẩn, thuyền trưởng phải dìu anh đi nằm.
Thuyền phó Woicek kéo tôi về chỗ anh. Là người mê văn chương, tốt nghiệp đại học báo chí xong, anh thi tiếp vào đại học hàng hải để có cơ hội lang thang trên thế giới. Cả buổi tối và gần hết đêm chúng tôi say sưa nói chuyện với nhau về văn học Ba Lan, về Mickiewicz, Miloscz, Senkiewicz…
Tôi hỏi anh về đời sống của dân Ba Lan.
- Chúng ta cùng một lò mà - Woicek thở dài – Đâu thì cũng thế. Cuộc sống của dân Đông Âu xem ra dễ chịu hơn nhiều…
- Âu và Á là hai thứ không giống nhau.
- Không phải. Chúng ta chỉ khác nhau ở cấp độ – Woicek phản đối - Cái giống nhau là chúng ta đều không có quyền lựa chọn xã hội ta muốn sống.
- Ấy là anh mới thấy Hải Phòng thôi đấy
- Hải Phòng của anh không giống bến cảng. Nó giống nhà trừng giới. Dân ở đây lảng tránh chúng tôi. Họ không được phép tiếp xúc với người nước ngoài.
- Họ nói với anh như thế?
- Chẳng cần nghe họ nói ra, liếc qua cũng thấy.
Đó là sự thực hiện nghiêm chỉnh mệnh lệnh nghiêm khắc của ông thủ tướng: cấm tiệt, không được phép giao thiệp với người nước ngoài. Ông không ra văn bản chính thức, nó bất tiện, mà bằng chỉ thị mật, lưu hành nội bộ.
Chúng tôi trò chuyện tới sáng.
Lúc chia tay Woicek mở tủ bắt tôi lấy bằng được một thứ gì đó của anh làm kỷ niệm, dù tôi khăng khăng từ chối.
Chiều lòng anh, tôi chọn đôi tất. Tôi không thể mang ra khỏi tàu bất cứ vật gì khác cái tôi có. Nếu tôi bị phát hiện mang vật gì không phải của tôi ra khỏi đây thì phiền lắm. Nhẹ thì bị buộc tội buôn lậu, nặng thì… có trời biết sẽ là cái gì - tội liên hệ với gián điệp của bọn xét lại cũng nên.
Các bạn đừng cười. Thật thế, mọi sự đều có thể xảy ra dưới bầu trời đỏ.
Để cẩn thận, tôi đi đôi tất mới ra ngoài đôi đang dùng, nhưng đi vào giày thì chật, đành tháo đôi cũ ra, quẳng nó qua cửa húp lô xuống sông. Quẳng đi cũng tiếc – đôi tất vẫn còn mới, sản phẩm của nhà máy dệt kim Đông Xuân vừa được mua trong một lần bắt thăm ở cơ quan.
Tôi quên chưa tả đôi tất Woicek cho. Nó là sự hòa trộn tuyệt vời những đường nét mang hai màu đen và xanh lam, rất trang nhã.
Đôi tất rất được lòng vợ tôi. Nó không những đẹp mà còn bền. Những đêm đông có nó đi vào chân thật tuyệt. Đến khi mậu dịch có bán giày da Mông Cổ, tôi mua được một đôi, vợ tôi cũng không cho tôi đi đôi tất tư bản, sợ nó rách.
Tôi bị bắt cóc giữa đường vào một ngày đông năm 1967, trời rét ngọt. May, trên người có áo bông, dưới chân có đôi tất Woicek cho trong giày.
Ở Hỏa Lò, trước khi đưa tôi vào xà lim, người ta khám xét rất kỹ: bắt tôi cởi trần truồng, bắt há mồm, chổng mông, dòm vào mọi chỗ, cả đôi tất cũng phải lột ra để họ nắn xem trong có gì.
Viên cán bộ chấp pháp, một người đàn ông gày còm, có dáng một thầy ký thời thuộc Pháp, chỉ sực nhớ đến đôi tất lạ mắt nhiều ngày sau.
Một hôm, khi được mở cửa xà lim ra cái sân bé tí tẹo lấy quần áo phơi vào, tôi thấy mất đôi tất. Hỏi, thì viên quản giáo trông khu xà lim 1, nơi tôi bị giam, bảo: “Không mất đâu mà sợ!”
Nhưng mất là mất, là không thấy nó nữa, nhưng sợ thì không sợ. Cái thân mình còn chẳng giữ được, nữa là đồ vật.
Hai hôm sau, người ta áp giải tôi ra “đi cung” (hỏi cung), tôi thấy đôi tất bị mất nằm trên bàn.
Sau các câu hỏi bao giờ cũng vô duyên, viên chấp pháp chỉ đôi tất trên bàn:
- Đôi tất ni là của anh?
- Vâng, của tôi. Tôi nghĩ nó đã mất.
- Không, nó không mất. Nó đây nè.
Thì ra họ thu của tôi. Viên chấp pháp giờ mới sực nhớ ra thứ mà y đã bỏ qua không chú ý trong khi khám xét tôi, hẳn thế.
- Nè, anh mua nó ở mô nhỉ?
- Tôi không có thói quen nhớ các cửa hàng – tôi thản nhiên - cũng không bao giờ nhớ mình mua cái gì giá bao nhiêu.
Viên chấp pháp nhấc đôi tất lên, chăm chú ngắm nghía. Y cận thị, phải đưa nó vào sát mặt để nhìn ngó, đến nỗi tôi nghĩ y muốn ngửi nó.
- Đôi tất đẹp thiệt, tui chưa thấy một đôi như rứa bao giờ.
- Tôi cũng ưng cái cách phối màu - tôi nói - Tươi, mà không sặc sỡ.
- Tui không hỏi anh nó đẹp hay không đẹp – y đổi giọng - Tui là tui muốn hỏi anh mua nó ở mô?
- Tôi đã nói là tôi không nhớ các cửa hàng mà. Nhất là ở chợ trời. Có cửa hàng mậu dịch nào bán của này? – tôi hiểu y muốn dẫn câu chuyện tới đâu – Tất không phải hàng bán theo phiếu. Loại hàng này chỉ phân phối về cho các cơ quan. Mà còn phải bắt thăm mới được mua đấy.
- Vậy tui mới hỏi. Tui cũng như anh, tôi biết thứ nào bán theo tem, thứ nào bán phân phối chớ – y ngó chòng chọc vào mắt tôi - Tui ngờ cái ni là quà của bọn xét lại Liên Xô cho anh…
Tôi bật cười:
- Bọn xét lại Liên Xô có tặng tôi thì cũng phải tặng cái gì ra hồn chứ. Ai lại cho một đôi tất? Mà tôi đã ở Liên Xô, tất bên ấy tốt, nhưng phối màu thì dở, không được như thế này đâu.
- Anh nói rứa mà nghe được. Chừ tui mới được nghe một câu chê Liên Xô từ miệng các anh đó.
Vào thời gian đó, nếu muốn đổ cho ai một cái tội gì đó thì tội xét lại là hợp mốt nhất. Trong cơn cuồng mác xít - lê-nin-nít theo đàn anh Trung Quốc người ta bỏ tù cả một anh chàng sinh viên Ukraina vì dám yêu gái bản địa, một anh cán bộ ngoại giao dám chè chén với người của lãnh sự quán Ai Cập, một nhà văn hiền lành chỉ vì thân với một nhà văn “phản động”...
Trong sự phô trương tinh thần bảo hoàng hơn vua, chính quyền các địa phương bủa lưới bắt vô số kế những công dân chẳng có tội gì cả. Nhiều người trong số này rồi nằm xuống la liệt trong các bãi tha ma bên cạnh nhà tù.
Cổ nhân nói: một mất mười ngờ. Nhưng với nhà cầm quyền xã hội chủ nghĩa thì khác. Họ chẳng mất gì, hoặc nói cho khách quan, chưa mất gì, nhưng ngờ thì vẫn cứ ngờ, ngờ bất cứ ai, trong bất cứ việc gì. Trong sự ngờ vực này, thói suy diễn được thả lỏng tối đa.
Khi không thể nặn ra được một lời thú nhận ở tôi, viên chấp pháp mẫn cán đánh trống lảng bằng câu chuyện vui, rằng có tên gián điệp bị bắt vì mang một cái ví da không giống ai. Cái ví là ám hiệu để nhận nhau với một tên gián điệp khác trong một đường dây.
- Nhưng che mắt ai, chớ không thể che mắt công an Việt Nam ngàn mắt ngàn tay - y cười hích hích - Bọn ấy rồi bị bắt hớt, không sót đứa mô.
Tôi hiểu y ám chỉ gì. Y đã có tuổi, dù chưa già, nhưng vẫn giữ được những nét trẻ thơ dễ mến.
Đúng vậy, công an ngàn mắt ngàn tay, tự ví mình với đức Phật, không bỏ sót chi tiết nào ở người bị bắt, kể cả một đôi tất.
- Ờ, thí dụ như cái đôi tất có màu lạ này, nó cũng có thể dùng làm ám hiệu đấy nhỉ? – tôi nói vui – Tôi đi thường, mà chẳng có đứa nào nhận tôi cả.
- Là tui nói vậy. Thôi, cho anh cầm về.
Y đứng lên, chán ngán. Công việc mà y hình dung không diễn ra như ý muốn. Dù sao thì cũng hết một buổi làm việc.
Đôi tất ở với tôi suốt mùa đông lạnh giá năm 1967. Những mùa đông sau tôi ít dám dùng, vì sợ nó chóng hỏng.
Vào năm tù thứ 8, vợ tôi mang lên trại Phong Quang giáp giới Trung Quốc, một đôi giày vải. Đôi giày da tôi đã “chác” (đổi) cho một anh tù được tha lấy đôi dép lốp thuận tiện hơn cho đời tù.
Nhìn đôi chân nứt nẻ của ông bạn tù, người được mệnh danh là “Giăng Van-giăng gọi bằng Cụ” vì thành tích ở liền tù tì trong các nhà tù 30 năm, tôi đem đôi giày vải biếu ông. Nhân tiện tôi biếu ông luôn đôi tất. Ông nhận giày, nhưng không nhận tất. “Ông đã nhường giày cho tôi, tất phải giữ lấy mà dùng, phòng khi trời quá lạnh”.
Mùa đông năm ấy lạnh thật, lạnh đến nỗi có hai người tù chết cóng, cán bộ vào thúc đi làm, đá cho mấy đá cũng không dậy, hóa ra đã về với ông bà ông vải rồi. Thế mà “Giăng Van-giăng gọi bằng Cụ” vẫn không đi giày, chỉ quấn xà-cạp kiêm tất được chế tạo từ một cái quần rách. Trách ông thì ông bảo: “Để đến mùa đông nào khác, khi sức tôi không còn có thể chịu đựng được nữa, tôi sẽ dùng. Mình án cao su, biết bao giờ ra khỏi đây mà phí phạm!”
Tôi ra tù một năm sau đó. “Giăng Van-giăng gọi bằng Cụ” vẫn còn đó. Không biết rồi khi nào ông dùng đến đôi giày vải nọ.
Đôi tất tôi mang về nhà.
Vợ tôi trổ tài khâu vá, mạng lại những chỗ rách, nhưng nó đã quá cũ, nhiều chỗ đã xơ xác, sau khi làm xong thì nó bé hẳn lại, chỉ vừa chân vợ tôi thôi. Khi trời quá lạnh vợ tôi lại nhường cho con út, nó đi hơi rộng, nhưng có còn hơn không.
Câu chuyện đôi tất ngoại đến đây là hết. Âu cũng là món quà bé nhỏ để mua vui cho các bạn trong mấy ngày cuối tuần.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.