Tìm hiểu về ý nghĩa “công
nghệ giáo dục” của ông Hồ Ngọc Đại, tôi nghĩ ông ấy (và những người ủng hộ)
hiểu chữ đó khác với khái niệm “educational
technology” của phương Tây.
Theo họ giải thích, tôi tóm tắt như sau: “Công nghệ giáo dục” là một phương pháp tổ chức giáo dục, mà trong
đó thầy là người tổ chức và học trò là người thi công (khác với cách làm truyền
thống là thầy giảng và trò ghi nhớ). Như vậy, cái ý tưởng Công nghệ giáo dục của họ khó tương đồng với khái niệm Educational Technology (1) ở phương Tây,
vốn đặt nặng việc ứng dụng công nghệ trong giảng dạy và giáo dục.
Từ
trừu tượng đến cụ thể
Ông Phạm Toàn có viết sách về công nghệ giáo dục (cuốn “Hợp Lưu Các Dòng Tâm Lý Học Giáo Dục”
(2)). Thế nhưng những người đọc sách đó cho biết họ không hiểu gì cả! Không
hiểu là vì sách không cho ví dụ cụ thể để giải thích những ý tưởng trong sách.
Điều này có vẻ đúng với chủ trương của “Công
nghệ giáo dục” của họ là học từ trừu
tượng đến cụ thể (thay vì cách dạy truyền thống là đi từ cụ thể đến trừu
tượng).
Cách dạy từ trừu tượng đến cụ thể là điều cần bàn. Tôi được dạy
theo cách cũ, tức đi từ cụ thể đến trừu tượng. Và, tôi cũng giảng bài theo
hướng này, vì tôi thấy cách giảng này rất hiệu quả. Các trường y trên thế giới
ngày nay cũng dạy theo hướng này mà họ gọi là PBL — problem based learning.
Sinh viên được giao cho một vấn đề (bệnh) cụ thể, và họ học về
nguyên nhân, yếu tố nguy cơ, điều trị, phòng bệnh từ ca đó. Sau khi quan sát
nhiều ca, họ có được quy luật tự nhiên. Có rất nhiều chứng cứ khoa học cho thấy
cách học từ cụ thể đến lý thuyết rất có hiệu quả. Tôi không biết chứng cứ khoa học
nào minh chứng cho sự hợp lý của cách dạy đi từ trừu tượng đến cụ thể.
Nguồn
gốc Liên Xô
Hoá ra, cái ý tưởng “Công nghệ giáo dục” này nó xuất phát từ
Liên Xô cũ. Thật ra, cái nguồn gốc sâu xa, trước Liên Xô, là Pháp. Thế nhưng
bên Pháp hình như không ứng dụng ý tưởng đó. Ông Hồ Ngọc Đại từng học ở Liên Xô
cũ. Ông du nhập và triển khai ý tưởng đó vào Việt Nam. Việc này cũng giống như
người ta mới được khai sáng, học được một trường phái nào đó, và vội xem đó là
chân lý, rồi áp đặt lên cả một cộng đồng xã hội.
Nếu trường phái đó đã được chứng minh
trong thực nghiệm trước khi triển khai, thì việc áp dụng cho quần thể là một
đóng góp có ý nghĩa. Ví dụ như phương pháp Montessori đã qua nhiều (rất nhiều)
nghiên cứu và thử nghiệm, nên được một bộ phận trong cộng đồng giáo dục chấp
nhận. Nếu trường phái đó chưa qua thử nghiệm để biết hiệu quả, mà triển khai
cho quần thể lớn, thì việc làm đó rất nguy hiểm và có thể gây xáo trộn hệ thống
hiện hành. Cũng giống như thuốc chưa qua thử nghiệm mà cho bệnh nhân dùng thì
rất nguy hiểm.
Cần nghiên cứu khoa học
Những gì xảy ra gần đây cho thấy rõ
rằng cái “công nghệ giáo dục” của Hồ
Ngọc Đại chưa hề quá thử nghiệm khoa học có bài bản. Nhưng có một hội đồng thẩm
định sách đánh vần của ông Hồ Ngọc Đại (3). Nhìn qua thành viên của hội đồng
này thì thấy đa số là người miền ngoài. Không thấy kết quả thẩm định ra sao, mà
chỉ thấy viết "tài liệu Tiếng Việt 1
- Công nghệ giáo dục cần được chỉnh sửa cẩn thận theo yêu cầu của Hội đồng thẩm
định."
Xem ra cách người ta đưa vào chương
trình giảng dạy cho học trò đơn giản quá! Ngay cả cơ sở triết lý trong môi
trường Việt Nam và tương quan với giáo dục truyền thống cũng chưa được phát
triển “chín.”
Do vậy, tôi nghĩ cách tốt nhất để có
tranh luận “informed” là nghiên cứu khoa học. Nhóm ông Hồ Ngọc Đại và Phạm Toàn
nên thực hiện những nghiên cứu đối chứng ngẫu nhiên (randomized controlled trial - RCT) so sánh hai cách dạy/học truyền
thống và “Công nghệ giáo dục”.
Những nghiên cứu đó cần có sự giám sát
của giới chuyên môn về RCT, chứ không thể để cho hai vị ấy tự ý làm (vì họ có
thể không có chuyên môn về RCT). Kết quả nghiên cứu phải được công bố để giới
chuyên môn và công chúng có thể đánh giá. Không có những nghiên cứu như thế thì
không nên triển khai cái “Công nghệ giáo
dục” đại trà được; triển khai thiếu
chứng cứ như thế là không thể chấp nhận được.
Từ học, tiếp thu, đến phát triển thành lý thuyết
là một bước đường dài. Từ lý thuyết đến thực hành lại là một bước đường dài
hơn. Hãy nhìn qua các nước
tiên tiến và giới khoa học trong thế giới phương Tây: từ kết quả nghiên cứu đến
phát triển thành lý thuyết phải xây dựng trên hàng trăm công trình nghiên cứu
có 'peer review', thuyết phục đồng
nghiệp trong hàng trăm hội nghị. Đâu phải chỉ viết một cuốn sách và vài bài báo
trên báo chí phổ thông là tự
nhiên thành “lý thuyết” hay “công nghệ.”
Cái thời nhà khoa học đùng một cái cho
ra một lý thuyết (như viết sách) đã qua lâu lắm rồi. Khoa học hiện đại phát
triển gần như theo mô hình đường thẳng kiểu từ A đến B, từ B đến C, từ C đến D,
v.v. để cuối cùng là một lý thuyết mới. Lý thuyết đó phải được đa số công chúng
và cộng đồng khoa học chấp nhận. (Chứ không phải lấy lý do phải có 'chuyên môn' mới hiểu! Viết ra những gì
trừu tượng để người khác đọc không hiểu là sự thất bại của tác giả, chứ không
phải ở người đọc không có chuyên môn.)
Cái thảm nạn ở Việt Nam là có những
người quá tự tin vào những "lý
thuyết" và những "chủ
nghĩa" như thế, rồi hăng hái áp đặt lên cả dân tộc. Có khi những câu
nói trừu tượng hay ví von được nâng lên thành 'tư tưởng'. Hậu quả là các thiết chế xã hội và giá trị bị đảo lộn.
Những bàn luận chung quanh vấn đề "công
nghệ giáo dục" là một lời nhắc nhở chúng ta không nên đi theo vết xe
đổ đó nữa.
GS NGUYỄN TUẤN 05.09.2018
http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-24h/Chu-tich-Hoi-dong-quoc-gia-tham-dinh-sach-thay-Ho-Ngoc-Dai-len-tieng-post189308.gd
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.