“Tiên học lễ hậu học văn”, cái slogan học đường đó đang bị thiên hạ lôi ra, một bên bảo bỏ, một bên bảo không.
Nhớ lại, có lẽ đó là sáu chữ tôi đọc được trong ngày đầu tiên đến trường sau khi học xong lớp vỡ lòng tại nhà anh họ tôi. Sáu chữ đó tôi nhớ suốt đời, mỗi khi nhẩm lại chỉ thấy vô cùng dễ chịu, chẳng có chút gì gọi là bị câu thúc trong “lễ giáo phong kiến” cả.
Dù từ nguyên của chữ “Lễ” là như thế nào, dù nó được người xưa dùng với nghĩa đen nghĩa bóng cách điệu như thế nào, thì đối với dân ta nó vẫn là một chữ chỉ mang ý nghĩa đẹp đẽ : là lễ phép, là lòng biết ơn, là sự khiêm nhường, là đạo làm người. Vua chúa biết lễ sẽ bớt đi sự ngạo mạn, dân thường biết lễ sẽ sống với nhau thuận hòa tử tế.
Tôi may mắn có một thời gian làm việc và quen thân với hai nhà lãnh đạo lễ phép với dân nhất. Người thứ nhất là Thủ trưởng cũ của tôi, ông Võ Văn Đặng, Phó Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam-Đà Nẵng. Là người phụ trách công tác dân vận, nhưng ông rất dị ứng với cụm từ “vận động quần chúng”. Ông thường nói với cán bộ, rằng “quần” là sự tụ tập thành bầy, “chúng” là đám đông, “quần chúng” là một bầy đông người. Gọi nhân dân như vậy là hỗn xược.
Có cán bộ đến cơ quan gọi một số vị giám mục, linh mục bằng mặt không bằng lòng với chế độ mới là “thằng”này “thằng” kia. Ông mắng anh ta vô lễ. Anh này giải thích rằng anh ta chỉ nói ở cơ quan thôi, chớ ra ngoài vẫn gọi là “ông” là “ngài” đàng hoàng. Ông bảo “nói tại đây cũng vô lễ”.
Người thứ hai là ông Mai Thúc Lân. Làm Phó Chủ tịch Quốc hội nhưng ông vẫn ở trong một căn hộ chung cư bình thường (sau khi về hưu mới chuyển đến ở một nơi khác), không rào không cổng. Hồi đó tôi ở căn hộ tầng trên căn hộ của ông nên tôi biết rõ, hàng ngày những người dân bị oan vẫn đón ông trên lối đi. Dù rất phiền toái, sáng đi làm gặp họ, chiều về cũng gặp họ, nhưng ông vẫn không né tránh. Ông từ tốn nói chuyện với họ khi có thời gian, hướng dẫn họ đến những nơi cần đến và giúp họ những gì ông có thể giúp được.
Tôi từng có cuộc phỏng vấn ông đăng trên Thanh Niên, ông đề nghị thay tất cả các “Đơn xin” bằng “Giấy yêu cầu” khi người dân có việc cần đến cơ quan công quyền. Ông bảo nói dân là chủ còn cán bộ là công bộc mà dân muốn làm gì cũng phải làm “đơn xin” thì thật là vô lễ với dân.
Tất nhiên lễ phép với dân không chỉ là chuyện nằm trong chữ nghĩa, mà chủ yếu nằm trong định chế của nhà nước, nhưng cẩu thả trong nói năng thì không thể tạo ra một định chế trọng dân nghiêm cẩn được. Từ nhỏ mà không biết khiêm tốn kính trên nhường dưới thì lớn lên sẽ không tránh thói ngạo mạn thượng tôn hạ đạp, khi có quyền thế sẽ ức hiếp dân lành.
Tôi không có ý định theo trend câu chuyện “Tiên học lễ hậu học văn” đang tranh cãi. Nhân đọc cái tút rất hay của giáo sư Trần Văn Thọ, nên viết phụ họa mấy dòng trên.
Là một trí thức lớn, là một kinh tế gia uyên bác từng làm trong Ban Tư vấn kinh tế cho năm đời Thủ tướng Nhật, nhưng giáo sư Thọ là người vô cùng khiêm nhường. Ông cương trực thẳng thắn nhưng không đao to búa lớn, và luôn “giữ lễ” trong các cuộc tranh biện.
HOÀNGHẢI VÂN 28.01.2021
P/s 1 : Một cách ngẫu nhiên, cái trend “Tiên học lễ hậu học văn” này diễn ra trong khi Hội nghị văn hóa toàn quốc vừa tiến hành. Đối chiếu với chương trình nghị sự của Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ 2 vào năm 1948 thì Hội nghị này vừa thừa thừa vừa thiếu thiếu. Có quá nhiều chuyện cũ mèm, nhưng lại có quá ít những vấn đề mới.
Tại hội nghị năm 1948, ngoài những vấn đề tư tưởng, giáo dục, văn chương, hội họa, âm nhạc … trong chương trình nghị sự còn có những thuyết trình giới thiệu về phương hướng mới của khoa Toán Lý của nhà khoa học Tạ Quang Bửu và những đóng góp cho toán học thế giới của giáo sư Lê Văn Thiêm, những bước tiến của khoa giải phẫu sau một năm kháng chiến của bác sĩ Hồ Đắc Di và Tôn Thất Tùng, công bố những hiểu biết về muỗi Anophèle ở Việt Nam (một giống muỗi gây bệnh sốt rét), những nhận xét mới về y lý của bệnh lao…, đều là những vấn đề thiết thực không tách khỏi phạm trù văn hóa. Còn tại hội nghị này, những thành tựu sáng tạo mang tầm quốc tế của các nhà khoa học Việt Nam hầu như vắng bóng.
P/s 2 : Nhân đề cập đến “tàn dư phong kiến”, xin lưu ý : Chẳng có cái tàn dư nào như vậy cả ở nước ta, đơn giản là chế độ phong kiến chưa hề tồn tại ở Việt Nam. “Phong kiến”, viết tắt của từ “phong tước kiến địa”, tương đương với chữ féodalité trong tiếng Pháp có gốc feod trong tiếng Latinh nghĩa là "lãnh địa cha truyền con nối". Là một chế độ có một ông vua (thiên tử) bên trên, xung quanh là các công thần hay con cháu được phong đất làm vua các nước chư hầu hoặc làm lãnh chúa các lãnh địa, nước chư hầu hay lãnh địa tồn tại như một quốc gia riêng, chỉ phụ thuộc một cách lỏng lẻo vào thiên tử hay vua.
Chế độ này tồn tại trong lịch sử Trung Quốc, ở châu Âu, ở Nhật Bản, nhưng chưa hề tồn tại ở Việt Nam trong suốt mấy ngàn năm kể từ khi lập quốc. Các triều đại từ Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn đều là chế độ quân chủ tập quyền, không phải phong kiến. Từ những năm 30 của thế kỷ trước, để trả lời những người học mót khái niệm của phương Tây mang vào áp dụng một cách khiên cưỡng ở Việt Nam, học giả Phan Khôi đã có một bài viết hết sức rõ ràng “Lịch sử Việt Nam không có chế độ phong kiến” đăng trên Phụ nữ Tân văn số 268 (29 Novembre 1934).
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.