TS Bùi Hiền - Ảnh nhân vật cung cấp cho Thanh Niên. |
(Thanh Niên 24/11/2017) Chúng ta nghĩ sao nếu chữ 'luật giáo dục' phải viết là 'luật záo zụk', 'nhà nước' là 'n’à nướk'…
Nhưng đó là cách viết cải tiến mà PGS-TS Bùi Hiền đề xuất trong một cuốn sách
mới xuất bản gần đây. Điều này gây ra nhiều tranh luận không chỉ trong giới
chuyên môn mà cả những người đang sử dụng tiếng Việt.
Chữ viết của tiếng Việt hiện tại chưa hợp
lý?
Đó là cuốn sách Ngôn ngữ ở
Việt Nam - Hội nhập và phát triển (tập 1) dày 2.200 trang, do nhà xuất bản
Dân trí phát hành, nhân Hội thảo ngữ học toàn quốc được tổ chức tại Trường ĐH
Quy Nhơn hồi tháng 9. Trong rất nhiều bài viết của các nhà ngôn ngữ học, có bài
“Chữ quốc ngữ và hội nhập quốc tế” của
tác giả Bùi Hiền với đề xuất cải tiến chữ viết tiếng Việt gây nhiều tranh cãi.
PGS-TS Bùi Hiền (Nguyên Hiệu phó trường ĐHSP Ngoại ngữ Hà Nội,
nguyên phó Viện trưởng Viện Nội dung & Phương pháp dạy - học phổ thông) cho
biết: “Từ năm 1924, khi toàn quyền Đông
Dương ký nghị định cho phép dạy chữ quốc ngữ bắt buộc ở cấp tiểu học, trải qua
gần một thế kỷ, đến nay chữ quốc ngữ đã bộc lộ nhiều bất hợp lý, nên cần phải
cải tiến để giản tiện, dễ nhớ, dễ sử dụng, tiết kiệm thời gian, vật tư…”.
Những bất hợp lý mà PGS Bùi Hiền đưa ra, đó là hiện tại, chúng ta
sử dụng 2, 3 chữ cái để biểu đạt một âm vị phụ âm đứng đầu. Ví dụ C – Q – K
(cuốc, quốc, ca, kali), Tr – Ch (tra, cha), S – X (sa, xa)… Bên cạnh đó, lại
dùng 2 chữ cái ghép lại để biểu đạt âm vị một số phụ âm đứng cuối vần như Ch,
Ng, Nh (mách, ông, tanh…).
“Đó là những hiện tượng
không thống nhất, không theo một nguyên tắc chung nào dẫn đến khó khăn cho
người đọc, người viết, thậm chí gây hiểu nhầm hoặc không hiểu được chính xác
nội dung thông tin. Người học như trẻ em hay người nước ngoài, cũng rất hay mắc
lỗi do sự phức tạp này mang lại”, tác giả Bùi Hiền chia sẻ.
Từ đó, PGS Hiền kiến nghị một phương án làm cơ sở để tiến tới một
phương án tối ưu trình nhà nước. Chữ quốc ngữ cải tiến của tác giả Bùi Hiền dựa
trên tiếng nói văn hóa của thủ đô Hà Nội cả về âm vị cơ bản lẫn 6 thanh điệu
chuẩn, nguyên tắc mỗi chữ chỉ biểu đạt một âm vị, và mỗi âm vị chỉ có một chữ
cái tương ứng biểu đạt.
Sẽ bỏ chữ Đ ra khỏi bảng chữ cái tiếng Việt hiện hành và bổ sung
thêm một số chữ cái tiếng Latin như F, J, W, Z. Bên cạnh đó, thay đổi giá trị
âm vị của 11 chữ cái hiện có trong bảng trên, cụ thể: C = Ch, Tr; D = Đ; G = G,
Gh; F = Ph; K = C, Q, K; Q = Ng, Ngh; R = R; S = S; X = Kh; W =Th; Z = d, gi,
r. Vì âm “nhờ” (nh) chưa có kí tự mới
thay thế, nên trong văn bản trên tạm thời dùng kí tự ghép n’ để biểu đạt.
PGS-TS Bùi Hiền cho biết: “Đề
xuất của tôi có nhiều nhà ngôn ngữ họ thấy hợp lý vì chữ viết mới có một nguyên
tắc thống nhất. Nhưng cũng có nhiều ý kiến phản bác vì cho rằng nếu cải tiến
vậy sẽ phức tạp, có nhiều hệ lụy. Ví dụ kho tư liệu đồ sộ cũ chuyển sang chữ
viết mới thì sẽ xử lý như thế nào. Và để thay đổi sẽ phải mất rất nhiều thời
gian: thay đổi nhận thức, thay đổi cách học, cách dạy, sách giáo khoa cũng phải
thay đổi, các văn bản, sách, báo, rồi lập trình chữ viết trên máy tính… Phải
thay đổi từng bước một. Nhưng chỉ cần mất 1-2 năm là quen dần”.
Bù lại, theo PGS Hiền, cải tiến theo cách này sẽ thống nhất được
chữ viết cho cả nước, loại bỏ được hầu hết các thiếu sót, bất cập không nhất
quán trước đây gây khó khăn cho người dùng (dẫn mắc lỗi chính tả), giản tiện
được bộ chữ cái khi từ 38 chữ cái chỉ còn 31, dễ nắm được quy tắc, dễ nhớ.
Ngoài ra, còn tiết kiệm được thời gian, công sức, vật tư trong quá trình tạo
lập các văn bản trên giấy, trên máy tính.
Sẽ mất đi sự tinh tế trong cách viết, đọc và phát âm của
tiếng Việt
Chia sẻ về vấn đề cải tiến chữ quốc ngữ, PGS-TS Nguyễn Hữu Hoành,
Phó Viện trưởng Viện Ngôn ngữ học Việt Nam cho biết, vấn đề này đã được các nhà
ngôn ngữ học trao đổi, đề cập rất nhiều trong những năm qua chứ không riêng gì
đề xuất của PGS-TS Bùi Hiền.
“Tuy nhiên, không thể thay
đổi được và cũng không nên thay đổi, vì chữ viết liên quan đến văn hóa, lịch sử
và rất nhiều vấn đề khác. Ngay cả tiếng Anh, một ngôn ngữ phổ biến có nhiều chữ
đọc và viết bất hợp lý mà cũng không ai nghĩ đến việc cải tiến. Đến nay, trải
qua nhiều thế kỷ, tiếng Việt đã định hình và chữ quốc ngữ đã tồn tại cả thế kỷ
với kho tư liệu đồ sộ từ lúc hình thành đến bây giờ”, PGS-TS Nguyễn Hữu Hoành nhìn nhận.
GS-TS Bùi Khánh Thế (chuyên ngành ngôn ngữ học, Phó Chủ tịch Hội
đồng khoa học và đào tạo Trường ĐH Ngoại ngữ-Tin học TP.HCM), cũng cho rằng, từ
năm 1997, Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM đã tổ chức hội thảo Chữ
quốc ngữ và sự phát triển chức năng xã hội của tiếng Việt, với 32 bài viết từ
các chuyên gia ngôn ngữ. Từ đó đến nay cũng có rất nhiều hội thảo, chuyên đề đề
cập tới việc nên giữ hay cải tiến.
Nói về đề xuất của PGS-TS Bùi Hiền, giáo sư Bùi Khánh Thế cho
biết: “Có một số bất hợp lý, chẳng hạn ký
tự q lại thay thế cho chữ ng, z thay gi, c thay tr, ch… Chưa kể làm vậy sẽ mất
đi sự tinh tế trong cách viết, đọc và phát âm của tiếng Việt. Từ lúc hình thành
cho đến nay, tiếng Việt có nhiều âm thay đổi nhưng chữ viết vẫn giữ nguyên. Đó
chính là sự bền vững cần có, chỉ những gì bất hợp lý mới mất đi”.
Theo GS-TS Bùi Khánh Thế, càng đổi mới thì càng bị rối. Đó là chưa
kể, sẽ phải tốn rất nhiều thời gian, công sức và kinh phí để thay đổi. Vì thế,
đối với chữ quốc ngữ, nên tìm cách chú ý khắc phục những cái khó, hơn là cải
tiến.
Một
ví dụ PGS-TS Bùi Hiền đưa ra được viết bằng 2 kiểu chữ hiện thời và cải tiến
LUẬT GIÁO
DỤC
Điều 7. Ngôn ngữ dùng trong nhà trường và
cơ sở giáo dục khác; dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số; dạy
ngoại ngữ.
1. Tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức dùng
trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác. Căn cứ vào mục tiêu giáo dục và yêu
cầu cụ thể về nội dung giáo dục, Thủ tướng chính phủ quy định việc dạy và học
bằng tiếng nước ngoài trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác.
2. Nhà nước tạo điều kiện để người dân
tộc thiểu số được học tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình nhằm giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hoá dân tộc, giúp cho học sinh người dân tộc thiểu số dễ dàng
tiếp thu kiến thức khi học tập trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác. Việc
dạy và học tiếng nói, chữ viết của dân tộc thiểu số được thực hiện theo quy
định của Chính phủ.
3. Ngoại ngữ quy định trong chương trình
giáo dục là ngôn ngữ được sử dụng phổ biến trong giao dịch quốc tế. Việc tổ
chức dạy ngoại ngữ trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác cần đảm bảo để người
học được học liên tục và có hiệu quả.
LUẬT ZÁO ZỤK
Diều 7. Qôn qữ zùq coq n’à cườq và kơ sở
záo zụk xák; zạy và họk tiếq nói, cữ viết kủa zân tộk wiểu số; zạy qoại qữ.
1. Tiếq Việt là qôn qữ cín’ wứk zùq coq
n’à cườq và kơ sở záo zụk xák. Kăn kứ vào mụk tiêu záo zụk và yêu kầu kụ wể về
nội zuq záo zụk, Wủ tướq cín’ fủ kuy dịn’ việk zạy và họk bằq tiếq nướk qoài
coq n’à cườq và kơ sở záo zụk xák.
2. N’à nướk tạo diều kiện dể qười zân tộk
wiểu số dượk họk tiếq nói, cữ viết kủa zân tộk mìn’ n’ằm zữ zìn và fát huy bản
sắk văn hoá zân tộk, zúp co họk sin’ qười zân tộk wiểu số zễ zàq tiếp wu kiến
wứk xi họk tập coq n’à cườq và kơ sở záo zụk xák. Việk zạy và họk tiếq nói, cữ
viết kủa zân tộk wiểu số dượk wựk hiện weo kuy dịn’ kủa Cín’ fủ.
3. Qoại qữ kuy dịn’ coq cươq cìn’ záo zụk
là qôn qữ dượk sử zụq fổ biến coq zao zịk kuốk tế. Việk tổ cứk zạy qoại qữ coq
n’à cườq và kơ sở záo zụk xák kần dảm bảo dể qười họk liên tụk và kó hiệu kuả.
Chữ viết hiện tại phong phú và không cần thiết thay đổi
Ông Trương Minh Đức, giáo viên ngữ văn Trường THPT Lê Quý Đôn,
TP.HCM cho rằng, tiếng Việt được hình thành từ lâu, đó là cả một quá trình tất
nhiên bản thân nó cũng đã có những quy tắc. Dùng đúng hay chưa phù hợp thì bản
thân nó cũng đã mang tính quy ước và có tính ổn định, thống nhất. Việc Chữ quốc
ngữ cải tiến dựa trên tiếng nói văn hóa của thủ đô Hà Nội liệu có đảm bảo độ
chính xác cao khi bản thân phương ngữ và cả ngữ âm Hà Nội không ai dám chắc là
chính xác. Vả lại sự phát triển ngôn ngữ trong tiếng Việt nó còn do yếu tố từ
yêu cầu của ngôn ngữ địa phương, vùng miền. Mặc dù điều này khó mang đến sự
thống nhất nhưng nó lại làm phong phú vốn từ và thể hiện được bản sắc riêng
từng địa phương.
Về phương án thay đổi âm vị của 11 chữ cái như PGS-TS Bùi Hiền đưa
ra, theo thầy Đức, là không cần thiết và không hợp lý, chỉ gây nên sự xáo trộn
không cần thiết, làm ảnh hưởng đến nhiều hệ thống bảng biểu, luật định, văn
bản... Và ngay cả tên gọi cá nhân trong các hồ sơ pháp lý.
“Việc dạy và học văn sẽ gặp
rất nhiều sự trở ngại. Đó là phải đào tạo lại giáo viên (không kể giáo viên dạy
các môn khác môn ngữ văn), điều chỉnh lại tất cả các văn bản văn học, kể cả văn
bản văn học chữ quốc ngữ (phải xin phép cả những tác giả đã khuất) hoặc nếu
không phải có hàng loạt các chú thích cuối trang để những học sinh đối chiếu
với văn bản gốc. Cần nhiều thời gian để giáo viên và cả xã hội làm quen những
điều vốn dĩ không cần thiết song hành với bao phức tạp của xã hội”, ông Đức nhìn nhận.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.