Các ngươi bàn về tu luyện
Đứa Đại Thừa, đứa Tiểu Thừa
Đứa nào cũng sắp thành Phật
Chỉ mình ta còn gươm khua
Các ngươi bàn về tu luyện
Đứa Đại Thừa, đứa Tiểu Thừa
Đứa nào cũng sắp thành Phật
Chỉ mình ta còn gươm khua
Từ nhỏ tôi đã chụp hình ở Bến Bạch Đằng
Ba má tôi không bao giờ gọi đó là "Ga Tàu Thủy"
Dân Sài Gòn không xuất thân từ khỉ
Từ rừng về chí chóe đổi thay tên
Cả đám vào quán gọi con gà chọi làm ba món
Ngồi chờ uống gần hết chai rượu và một thùng bia
Những cô gái phục vụ ỡm ờ
Nói năng lượn lẹo đa nghĩa
Nghĩa nào cũng đụng chiếu giường
Mắt liếc vào túi sắc như gươm
Tôi đã thức chờ đến 0 giờ ngày 17 tháng Hai
Để nhớ về 45 năm trước
Lúc biên ải năm ấy vừa qua ngày khác
Chắc không một ai tin vài giờ sau họ sẽ chết bởi đạn giặc Tàu !
Tôi đốt nén nhang vòng để nhang cháy được lâu
Lâu đến mấy cũng không lâu bằng ADN truyền kiếp
Những trang sử rõ ràng đời đời kế tiếp
Có thể không ghim sâu bằng trang sử muốn lãng quên
hôm nay ai về biên giới
cho tôi gửi nén hương trầm
thắp lên từng ngôi mộ chí
khói thơm nơi các anh nằm
hôm nay ai về biên giới?
các anh nằm ngắm trời mây
đất Vị Xuyên ôm mãi mãi
tuổi xanh còn mãi nơi đây
Hôm nay là ngày 17 tháng 2, ngày Trung Quốc nổ súng xâm lược Việt Nam dọc biên giới phía Bắc. Hồi đó tôi đã viết một số bài thơ về cuộc chiến tranh này. Nay xin được đưa lại để nhớ về ngày này 45 năm về trước.
CHÚNG TÔI GỌI TÊN ANH
(Tưởng nhớ liệt sĩ Lê Đình Chinh. Người liệt sĩ đầu tiên trong cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc trên biên giới phía Bắc).
Anh Chinh ơi ! Chúng tôi gọi tên anh
Khi lũ quỷ tràn sang đất mẹ
Những họng súng đen ngòm
Những mắt đầy man rợ
Bước chân đi làm bẩn đất rừng
Tấm bia đã bị đục
Bởi một lũ đê hèn
Một lũ hèn cõng rắn
Cắn gà nhà nửa đêm
Sư đoàn 337
Tiêu diệt giặc nơi đây
Ghi chiến công lừng lẫy
Bỗng mất dạng hình hài
Tạ Duy Anh giới thiệu : Sau Tết nhà thơ Thanh Thảo gửi cho tôi bài này và nói thêm: "Đ. có báo nào nó dám in chú ạ, khốn nạn thế chứ". Tôi bảo ông : Thông cảm cho họ đi, để chú nó đăng.
Thơ Tô Thùy Yên lặng lẽ. Dù ông viết dài hay viết ngắn, thì thơ ấy vẫn lặng lẽ. Người đọc đồng cảm với thơ ấy, cũng trong lặng lẽ. Đó là thơ của Chim kêu bãi quạnh, hắt hiu và đau đớn:
“Cởi đôi giày vẹt, tấm áo tã
Xót xa như lột một lần da” (Chim kêu bãi quạnh)
Như thường lệ, đón xuân Mậu Thân 1968, với trọng trách chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, quốc gia ở miền Bắc (còn nửa kia là miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào, cũng là một nước độc lập tự chủ, có tên Việt Nam Cộng Hòa), cụ Hồ lại chúc Tết.
Như đã nói, ông cụ chúc Tết bằng thơ, dù thơ không hay. Cần gì hay, cốt yếu là truyền đạt được mệnh lệnh, mục đích, chỉ tiêu để dân chúng, chiến sĩ thực hiện. Hầu như bài nào cũng vậy.
Cho tới nay, cụ qua đời đã gần 55 năm nhưng chưa thấy nghiên cứu sinh nào làm luận án tiến sĩ về thơ chúc Tết của cụ Hồ, tinh dững lạc sang đề tài cầu lông, bóng bàn, hoạt động của hội phụ nữ… Tôi mà là giám đốc học viện quốc gia nào đó, tôi cho 5 - 7 người đồng loạt làm đề tài này luôn, đặc cách thành công luôn, khỏi cần người hướng dẫn, tổ chức bảo vệ.
Như tục lệ, ngày mồng 2 là bà con đi thăm các chùa, nhiều chừng nào tốt chừng ấy, Tết năm nay rơi trúng ngày cuối tuần nên thật trọn vẹn.
Ờ ! đến chùa để sám hối, để tưởng nhớ người đã mất, để cầu nguyện cho một tương lai...Nhưng cái chính là để... chụp hình. Tui cũng là "nhiếp ảnh gia" có hạng. Đổ tiền mua máy và ống kính khá nhiều. Máy mắc tiền, mua là nghèo, chụp vẫn thua iPhone hay Samsung. Giờ bỏ hết, xách điện thoại cho nhẹ nhàng.
Đi chụp cho mấy nàng mình còn phải xách thêm "đạo cụ" như dù, các loại mũ nón... Tiếc rằng "thợ chụp" kỳ này mắt không thấy đường, ra nắng là hoa mắt, bởi dzậy chụp mấy trăm tấm chỉ lấy được…mấy tấm.
Đời người, có những thứ, dù không phải của riêng mình, nhưng không thể quên, không bao giờ quên. Tết Mậu Thân 1968 là dạng vậy.
Tại đang ngày Tết, hôm nay mùng 2 Tết Giáp Thìn 2024, nên cái ký ức muốn đào sâu chôn chặt, vùi nó cho quên đi, lại thò ra. Đã 56 năm, gần một đời người theo chuẩn “lục thập hoa giáp”, tôi vẫn còn nhớ những gì liên quan tới nó, dù khi ấy mình còn hơi be bé.
Năm 1968, tôi đang học lớp 7 (hệ 10 năm). Đã biết làm văn nghị luận. Thầy giáo văn Ngô Minh Phất chuyên dạy văn lớp 7 trường cấp 2 Thụy Hương, cứ mỗi năm có thơ cụ Hồ chúc Tết lại lấy bài đó bắt học trò làm bài phân tích tác phẩm hoặc bình giảng.
Chiều 29 Tết, muốn dạo quanh ngắm nhìn Hà Nội những ngày Tết, vắng và yên tĩnh nên tôi bắt mấy chuyến xe buýt từ Times lên Hồ Tây, về Lotte rồi về Hùng Vương. Chạy dọc Phan Đình Phùng à chạy qua đường Thanh Niên lên Long Biên rồi về gần Times rồi chạy bộ về túp lều tranh với U già. Đi cả ba chặng buýt chỉ hết 22.000 đồng thôi.
Hà Nội vắng vẻ, những người giàu đã rời Hà Nội đi chơi, chỉ có người nghèo không có tiền là ở lại canh giữ Thủ đô. Mà kinh thành năm nay quá yên bình dù có phần lạnh lẽo, củi đốt cũng không mang lại nhiều hơi ấm. Tôi cảm thấy cô đơn nên có vẻ buồn, vì gì gì không biết nữa, hay vì mình buồn nên thấy xung quanh cũng không quá náo nhiệt.
Không thấy mấy ông bạn gọi đi nhậu như mọi năm, không thấy nhiều niềm vui trên nét mặt người dân, không thấy hồ hởi và hào hứng trong giọng nói. Hôm nọ, 26 Tết còn ông doanh nhân vay tiền mình trả lương/thưởng Tết cho nhân viên mà thấy thương.
Ông chủ vườn sao buồn vậy
Nghe câu ca xuân, nước mắt rơi
Người ơi, người xin đừng hát
Đừng hát câu "Hoa mai đã nở rồi!"
“Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau
Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu.
Phen này ông quyết đi buôn cối,
Thiên hạ bao nhiêu đứa giã trầu.
Nhà thơ Trần Dzạ Lữ ( tên thật Trần Văn Duận, sinh năm 1949 tại Huế). Như bao thanh niên trai tráng thời tao loạn, ông gia nhập Quân lực Việt Nam Cộng Hòa ngành Truyền tin với cấp bậc Chuẩn úy. Nhiều bài thơ của ông trước 1975 đã được xuất bản và được nhiều người yêu mến.
Năm 1974, ông viết bài thơ tặng thi sĩ Vũ Hữu Định Ngày tàn cuộc:
NGÀY TÀN CUỘC
*Gửi hương hồn Vũ Hữu Định
Ngày tàn cuộc người về thăm quê quán
đồng cỏ mừng đón vó ngựa hồng xưa
chuyện chiến tranh coi như là dĩ vãng
sông Thanh Bình tấp nập bến đò đưa
(Đỗ Duy Ngọc viết về tập thơ của nhà thơ Trần Dzạ Lữ)
Trần Dzạ Lữ làm thơ đã lâu. Thơ anh xuất hiện các tạp chí ở miền Nam từ thập niên 60 của thế kỷ trước. Thơ anh hiền lành như con người anh. Trần Dzạ Lữ là nhà thơ lầm lũi và lận đận. Anh đã có ba tập thơ ra đời trong nhiều khốn khó.
Đó là các tập: Hát dạo bên trời (NXB Trẻ. 1995), Gọi tình bên sông (NXB Trẻ. 1997) và mới đây nhất Thơ tình viết trên bao thuốc lá (NXB Hội Nhà Văn 2014).
Trần Dzạ Lữ gốc Huế. Và là người mang đậm nét Huế từ giọng nói cho đến dáng đi. Khoan thai, chậm rãi và hiền từ. Và dĩ nhiên Huế đậm đặc trong cách nói năng.
Có lần vì một việc gì đó tôi gọi anh muốn gặp, anh nói "Bổn đến trước cổng chợ Trần Hữu Trang, mình giữ xe ở đó".
Tôi đến, nắng giữa chiều Sài Gòn bạo liệt, anh mặc cái áo cũ màu chàm, đội nón lá, cười với tôi nhưng tay quệt mồ hôi. Hình như anh có vài chục năm giữ xe ở đây. Trong hàng trăm ngàn người đến ngôi chợ thuộc Phú Nhuận đó, có ai biết người đàn ông dong dỏng cao, có nụ cười tươi, dắt xe cho khách kia là một nhà thơ đã nổi tiếng tại miền Nam từ trước biến cố 1975 !
"Mười năm ở chợ không tri kỷ
Ta đứng thu thân một nỗi buồn
Sáng bảnh mắt ra ngồi độc ẩm
Chiều về tra vấn lấy lương tâm
1. HÃY THẢ THÊM MUỐI VÀO BIỂN CỦA TÔI
Tôi hòa nước muối đổ đầy chiếc thau nhôm
Thả vào đấy những hình nhân bằng gốm
Thổi căm giận cho ngút lên thành sóng
Rồi khóc tràn ký ức Biển Đông.
“Ơi biển VIệt Nam, ơi sóng Việt Nam…”
Sóng rờn rợn dưới thân tàu giặc Hán
Tiếng chuông chùa từ Tung Sơn thăm thẳm
Vọng âm hồn trên trời biển nước tôi.
Hoàng Sa hề, hỡi người ở lại,
Sóng bạc đầu còn khóc tóc xanh.
Trăm giông nghìn gió xô thành bại,
Nước mất hề, ngày tháng đành hanh.