Viễn ảnh Việt Nam
trở thành một nền kinh tế dựa vào công nghệ và sáng tạo thường được thủ tướng
Nguyễn Xuân Phúc ca ngợi, nhưng ước mơ công nghệ hóa đất nước của những người
cộng sản càng ngày càng xa rời thực tế.
Thực tế Việt Nam vẫn
là một nước với nền kinh tế tiểu thương, tiểu nông, ngày càng lệ thuộc vào các
công ty đa quốc gia và vào nhập cảng hàng hóa tiêu dùng từ nước ngoài.
Doanh nhân Việt Nam
chịu nhiều bất công từ chính sách, luật pháp đến môi trường kinh doanh nên
không thể phát triển, các doanh nghiệp tư nhân đóng góp chưa đến 10% GDP, 96%
các doanh nghiệp đều nhỏ hay rất nhỏ chỉ được xem là tiểu thương hay tiểu doanh
nhân.
Kinh tế hộ gia đình
bao gồm tiểu thương, tiểu thủ công nghệ, buôn bán bán bưng và tiểu nông vẫn
chiếm tới 32% GDP.
Doanh nghiệp nhà nước (DNNN)
Khu vực kinh tế quốc
doanh theo thống kê vẫn chiếm 27% GDP, trên thực tế tỉ lệ có thể lớn hơn rất
nhiều vì định nghĩa DNNN chưa được rõ ràng.
Các BOT bẩn có vốn
đầu tư từ các ngân hàng nhà nước lên đến 90% như thế có thuộc DNNN không?
Các doanh nghiệp cổ
phần hóa, nhà nước vẫn giữ cổ phần như thế có thuộc DNNN không?
Đã có 3 ngân hàng cổ
phần được Ngân hàng Nhà nước mua lại toàn bộ cổ phần với giá 0 đồng, như vậy
các ngân hàng cổ phần khác có thuộc DNNN không?
Các doanh nghiệp làm
sân sau cho các nhóm lợi ích có thuộc DNNN không?
Trên chỉ là vài thí
dụ, theo chủ trương của đảng Cộng sản kinh tế quốc doanh vẫn giữ vai trò chủ
đạo, DNNN vẫn được nhà nước tiếp tục nuôi dưỡng mặc dầu tham nhũng, lợi ích
nhóm, lãng phí của công, thiếu hiệu quả tràn lan trong khu vực này.
Trong khi đó muốn có
một môi trường kinh doanh công bằng cho việc phát triển đất nước, Hà Nội phải
chấm dứt can thiệp vào hoạt động của DNNN, chấm dứt mọi trợ cấp, cho vay ưu
đãi, bảo lãnh vay, xóa nợ, ưu đãi nguồn lực đất và tài nguyên.
Hà Nội phải để các
DNNN tuân thủ nguyên tắc thị trường không được bù lỗ, không giảm trừ thuế và
DNNN phải bình đẳng cạnh tranh kinh doanh với khu vực tư nhân.
Những hiệp định thương
mãi quốc tế buộc Hà Nội phải tiếp tục cổ phần hóa các DNNN cũng như mở cửa khu
vực dịch vụ công cộng cho các doanh nghiệp nước ngoài vào khai thác.
Trong việc cổ phần
hóa các DNNN cần được “xã hội hóa” bằng cách bán cổ phần cho dân chúng, từ trẻ
đến già mỗi người một ít, như nhiều quốc gia trên thế giới vẫn làm, thay vì bán
cho người nước ngoài. Trường hợp công ty bia Sài Gòn Sabeco bán tới 53,59% cổ
phần cho tỷ phú Thái Charoen Sirivadhanabhakdi.
Doanh nghiệp có nguồn vốn đầu tư nước ngoài (DNVĐTNN)
Trên 30 năm nay, Hà
Nội theo đuổi chiến lược tăng trưởng kinh tế dựa trên đầu tư nước ngoài vào
công nghiệp phục vụ xuất cảng.
Các DNVĐTNN và các
tập đoàn đa quốc gia được ưu đãi mọi mặt, từ thủ tục hành chánh, thuê mướn đất
đai, thuê mướn nhân công, miễn giảm thuế má, trợ giúp xuất nhập cảng, trợ giúp
vay thêm vốn, cạnh tranh thu hút đầu tư giữa các địa phương, cho đến các chính
sách vĩ mô về hối đoái, tiền tệ hay ký kết các Hiệp Định Thương Mãi Quốc Tế để
mở rộng xuất cảng.
Khu vực có vốn đầu
tư nước ngoài đã chiếm trên 20% GDP, trong khi khu vực doanh nghiệp tư nhân
chưa được 10% và khoảng cách chênh lệch ngày một gia tăng.
Trong khi thuế thu
nhập doanh nghiệp các DNVĐTNN bình quân chỉ 10%, thì doanh nghiệp tư nhân Việt
Nam trung bình đóng 20%. Nghịch lý đã xảy ra khu vực DNVĐTNN to gấp đôi nhưng
giao nộp ngân sách chỉ bằng nửa (51%) khu vực tư nhân.
Các công ty đa quốc
gia như Samsung năm 2018 lợi nhuận lên tới 5 tỷ Mỹ Kim trong khi thuế đóng góp
cho ngân sách chỉ chừng trên 300 triệu Mỹ Kim.
Theo Kinh tế trưởng
World Bank tại Việt Nam Tiến sỹ Sebastian Eckardt việc cắt giảm thuế thu nhập
từ doanh nghiệp và các ưu đãi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài là một nguyên
nhân gây ra việc thu ngân sách từ mức gần 30% GDP trong nhiều năm đã hạ xuống
khoảng 26-28% trong giai đoạn 2006-2009 và có xu hướng giảm đi vào giai đoạn
2015-2018 trung bình chỉ còn khoảng hơn 23% GDP.
Chiến lược ưu đãi
DNCVĐTNN chỉ thu hút được các doanh nghiệp khai thác lợi nhuận trước mắt.
Samsung đã từng rút khỏi Nam Hàn, rời sang Trung Quốc rồi vào Việt Nam, khi
tình hình chính trị Bắc Hàn cho phép Samsung sẽ lại tiếp tục dời đi.
Trong khi các
DNVĐTNN được luật pháp quốc tế bảo vệ còn DNTN phải dựa vào luật pháp Việt Nam,
mà luật pháp Việt Nam thì thật khác với thế giới.
Tiến sĩ Nguyễn Đình
Cung, Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương cho biết chính
sách và pháp luật dù có cải thiện nhưng vẫn chưa khắc phục được “8 không” là
không rõ ràng, không cụ thể, không minh bạch, không hợp lý, không ổn định,
không tiên liệu trước, không hiệu quả và không hiệu lực.
Các doanh nghiệp tư
nhân Việt Nam vì thế khó có thể cạnh tranh một cách hiệu quả ngay tại Việt Nam
thì nói gì đến việc vươn ra biển cạnh tranh ở xứ người.
Nhiều quốc gia bao
gồm Mỹ, Úc, Canada, Âu châu cấp các visa đầu tư cho những doanh nhân với số vốn
nhỏ chỉ chừng 1 triệu Mỹ kim nhằm thu hút các doanh nhân đến định cư tại các
quốc gia này. Các doanh nhân này
vừa mang tiền đến đầu tư, vừa mang kinh nghiệm làm ăn buôn bán, vừa thực hiện
ước muốn được định cư trên một xứ sở họ được đối xử công bằng.
Sau làn sóng tị nạn
chính trị là làn sóng người Việt liên tục bỏ nước ra đi, tại Việt Nam họ bị đối
xử bất công về mọi mặt, họ phải tìm đến một chân trời mới, nơi đất lành chim
đậu.
Doanh nghiệp tư nhân (DNTN)
Việt Nam hiện có
trên 600 ngàn doanh nghiệp, với 500 ngàn DNTN, nhưng có tới hơn 96% là DN nhỏ
và rất nhỏ, 2% DN quy mô vừa và 2% DN lớn.
Mặc dù không tới 10%
GDP, DNTN lại tạo công ăn việc làm cho hằng chục triệu người lao động, mỗi năm
tạo thêm vài trăm ngàn công việc làm mới. Đồng tiền đầu tư vào DNTN luôn tạo ra
nhiều công ăn việc làm hơn các khu vực khác. Nhưng có tới 48%
DNTN bị thua lỗ, chỉ riêng năm 2018, con số DNTN không đủ vốn, không đủ sức
cạnh tranh phải ngừng kinh doanh đã lên đến 90.000.
Nghịch lý là tỉ lệ
đóng góp vào thuế của các DNTN chiếm đến hơn 41% vẫn cao hơn tỉ lệ đóng góp của
các khu vực khác.Chưa kể các DNTN còn
phải đóng phí cho cửa quyền cho tham nhũng để được yên ổn làm ăn.
Một môi trường kinh
doanh như thế các DNTN không thể tự đề ra những chính sách và chiến lược để có
thể cạnh tranh và phát triển. Rất ít các DNTN đủ lớn để có khả năng hướng tới
đầu tư sản xuất hàng công nghiệp.
Bước sâu vào sân
chơi quốc tế Việt Nam sẽ phải cắt giảm thuế quan, dỡ bỏ rào cản thương mại và
mở cửa thị trường sâu hơn, sức ép cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn, nếu Hà Nội
không đưa ra các chính sách thích hợp thì các DNTN khó có thể sống còn.
Bởi thế thay vì đầu
tư trong nước, nhiều doanh nhân đã bán lại doanh nghiệp trong nước, dùng tiền
vốn đầu tư và định cư nước ngoài như đã nói phần trên.Nhiều gia đình cũng
sẵn sàng chi trả hàng trăm nghìn Mỹ kim cho con em đi du học và khi tốt nghiệp
con em họ định cư ở nước ngoài, rồi cả gia đình bán doanh nghiệp di dân.
Hiện tượng tìm cơ
hội tốt hơn nơi xứ người đang càng ngày càng trở nên rầm rộ nhưng vẫn chưa được
Hà Nội đánh giá đúng mức để điều chỉnh “chiến lược” dựa trên tư bản nước ngoài.
Hộ Gia Đình
Cũng cần nói qua về
kinh tế hộ gia đình một hình thức kinh doanh còn chiếm trên 32% GDP, gồm những
tiểu thương, tiểu thủ công nghệ, buôn gánh bán bưng, các tiểu nông.
Nhiều hộ kinh doanh
tránh thành lập doanh nghiệp tư nhân vì quá nhiều rào cản lại không mang lại
lợi ích trong việc phát triển kinh doanh. Nhiều hộ kinh doanh phải hoạt động
trong nền kinh tế “ngầm” tránh việc quản lý của công quyền.
Gần đây Thủ tướng
Nguyễn Xuân Phúc giao cho Tổng cục Thống kê, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đánh giá, rà
soát lại quy mô GDP và phải “đưa kinh tế ngầm vào GDP”, nhiều người cho rằng
nhằm mục đích thu thuế.
Tại sao các hộ gia
đình trốn hay tránh bị đóng thuế? Và nếu biết rõ nền kinh tế “ngầm” liệu Hà Nội
có thể thu được thêm thuế không? là những câu hỏi khá thích thú hẹn bạn đọc dịp
khác sẽ bình luận.
Thay đổi thể chế
Phát triển quốc gia
lẽ ra phải dựa vào nội lực đất nước, phải dựa vào doanh nghiệp tư nhân thì Hà
Nội lại chạy theo chiến lược dựa vào tư bản nước ngoài.
Chiến lược sai lầm
kết quả là doanh nghiệp tư nhân ngừng phát triển, đất nước và xã hội bị kéo
theo trở thành chậm phát triển, bởi thế Việt Nam vẫn là một nền kinh tế dựa
trên tiểu thương và tiểu nông.
Muốn phát triển điều
kiện cần là Hà Nội phải thay đổi chiến lược, chính sách và luật pháp sao cho
phù hợp, rõ ràng, minh bạch, cụ thể, hợp lý, tạo ổn định, để mọi doanh nghiệp
được cạnh tranh một cách bình đẳng.
Điều kiện đủ là Việt
Nam phải có tự do kinh doanh, quyền tư hữu tài sản và đất đai phải được Chính
Phủ bảo đảm và tầng lớp doanh nhân phải có quyền tự do chọn người đại diện
trong Quốc Hội và Chính Phủ để bảo vệ quyền lợi cho chính họ.
NGUYỄN QUANG DUY
Melbourne, Úc Đại
Lợi
26/03/2019
(Tác
giả gởi blog Thụy My)
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.