lundi 4 août 2025

Tạ Duy Anh - Bước qua lời nguyền (2)

 

Tuổi thơ của tôi được nâng lên từ những cánh diều. Chiều chiều trên bãi thả, không cứ gì chúng tôi, người lớn cũng hò hét nhau thả diều thi. Diều của người lớn làm bằng cả cây tre, to mấy người khiêng.

Lúc thả lên trời, cánh diều khổng lồ ấy chao lắc như đảo đồng. Ở dưới đất, đám người lớn có vẻ bị lùn đi một chút, đang ăn thua nhau từng nấc một. Họ mượn cánh diều để ám chỉ sự phát lộc của gia đình nhau. Tôi còn nhớ đã từng xảy ra ẩu đả đẫm máu vì những cuộc thi diều. Con lợn năm chục cân làm giải thi, cứ từ chuồng nhà này chuyển sang nhà kia sau những thông báo sốt dẻo từ bãi thả.

Cánh diều của trẻ con chúng tôi mềm mại như cánh bướm, thanh sạch vì không hề vụ lợi. Trong khi người lớn chạy bật móng chân để rong diều thì đám mục đồng chúng tôi sướng đến phát dại khi nhìn lên trời. Sáo lông ngỗng vi vu trầm bổng. Sáo đơn rồi sáo kép, sáo bè... như gọi thấp xuống những vì sao sớm.

Ban đêm trên bãi thả diều thật không còn gì huyền ảo hơn. Có cảm giác diều đang trôi trên dải Ngân Hà! Người lớn sợ bóng đêm như sợ mất con lợn cứ thu diều về dần, bỏ mặc chúng tôi với bầu trời tự do, đẹp như một thảm nhung khổng lồ. Có cái gì cứ cháy lên, cháy mãi trong tâm hồn chúng tôi. Sau này tôi hiểu đấy là khát vọng.

Tựa như khi tôi đọc truyện cổ tích và ước thành một chàng hoàng tử lao vào chém mãng xà bảy đầu cứu nàng công chúa. Chỉ có trăng, sao và những cánh diều hộ mệnh. Tôi đã ngửa cổ suốt thời mới lớn để chờ đợi một nàng tiên áo xanh bay xuống từ trời. Bởi vì bao giờ tôi cũng hy vọng khi tha thiết cầu xin: "Bay đi diều ơi, bay đi...". Cánh diều tuổi ngọc ngà dứt dây bay đi, mang theo nỗi khao khát héo mòn của tôi.

Cho đến một hôm cánh diều trở lại thật. Nó xác xơ, ủ rũ và bị xách ngược lên, tàn nhẫn như người ta xách một con cá.

- Cháu nhặt được ở Đồng Cát.

-...

- Cháu biết ngay là diều của cậu đứt dây, cậu xé vở dán diều à?

-...

- Bố cháu bảo cháu mang trả cậu. Cậu đã ôn bài cô giáo cho chưa?

 Con em út tôi nghe thấy giọng nói ngập ngừng của Quý Anh, lao vụt ra nhanh như con chèo bẻo:

- Ai cho mày đến nhà tao. Cút ngay đồ bóc lột!

Quý Anh co người lại câm lặng trở lui. Vốn sống bằng mặc cảm bị khinh ghét từ bé, nó và những đứa con của lão Hứa đều xưng "cháu" với bất cứ ai trong làng. Nó sẵn sàng im lặng để một đứa bé lên ba cào vào mặt.

Dạo ấy chân ruộng gieo mạ chưa bị tận dụng tăng vụ như bây giờ. Sau khi đưa hết mạ xuống đồng cấy, chân ruộng ấy bị bỏ rờm cho đến lứa mạ sau. Thật là một thời kỳ hiếm có mà trời ban cho bọn trẻ chúng tôi. Không bị ngăn cản, đám cây cút kít, cỏ rày, cỏ mật... mọc nhanh như có phép, tạo một thảm xanh tuyệt đẹp chạy hút đến tận bờ đê là nơi mặt trời thường nhô lên mỗi buổi sáng.

Chúng tôi bỏ mặc lũ trâu chạy ăn tự do trên cánh đồng. Từng đàn chèo bẻo sà xuống bắt ruồi, thỉnh thoảng lại xoẹt cánh ngang mặt chúng tôi. Có hôm bọn tôi chạy re kèn vì một đôi vợ chồng chèo bẻo mất con. Giống chim này say đòn, sẵn sàng bổ toác đầu đối phương, bất kể đó là người.

Quý Anh cũng có mặt trong đám trẻ chăn trâu. Lẽo đẽo theo nó là Quý Hương. Hai chị em Quý Anh cùng với chiếc rổ sề, bao giờ cũng cặm cụi một chỗ kiếm rau lợn.

Con trâu nhà Quý Anh vốn nổi tiếng hung dữ. Ngoài hai chị em Quý Anh, bất kể ai có ý định đến gần nó đều rất có thể bị lòi ruột. Ấy vậy mà trước hai cô chủ, nó hiền lành đến đáng ngờ.

Dạo ấy "Cu Nhỡ" là con trâu giống mới lớn duy nhất trong làng. Nó cậy uy thế có bộ cà, độc chiếm đàn trâu cái vừa béo mượt trở lại sau vụ cày. Nó luôn canh cánh cảnh giác con Sừng Măng nhà Quý Anh là đối thủ cuối cùng khiến nó còn kiềng mặt. Sở dĩ gọi là con Sừng Măng vì cặp sừng của nó ngắn củn, to và nhọn như hai chiếc măng. Khi lao vào đối thủ, đôi sừng ấy lợi hại vô cùng. Nó có thể móc mắt, đâm thủng hầu đối phương mà không bị đánh trả.

Hôm ấy đám trẻ trâu chúng tôi mải mê quần nhau với đôi vợ chồng chèo bẻo mất con. Từ ngọn cây gạo, vợ chồng chèo bẻo thi nhau chửi chúng tôi. Ý chừng nó bảo: "Lũ sát nhân kia! Chúng mày giấu con bà ở đâu. Chẹ.p he.p che.p he.pm... bà thì móc mắt chúng mày ra". Khi con chèo bẻo vợ chõ mỏ chửi một cách chua ngoa thì bất thần thằng chồng cục súc thu người lại, lao như tên bắn vào đám trẻ chúng tôi. Lúc đến gần, mắt nó lóe lên như hai cục than, bộ móng chụm lại, chỉ nhãng ý một tí là thủng đầu với nó. Tuy đã chuẩn bị trước nhưng bao giờ chúng tôi cũng bị bất ngờ, đành vụt vu vơ vào chỏm đuôi con chèo bẻo rồi lăn ra cười như nắc nẻ.

- "Che.p he.p chồng bà thương chúng mày đầu xanh tuổi dại đấy".

- "Lần này thì mày chết. Chỉ một nhát là tụi ông nướng chả".

- "Choẹt!"

- "Ái chà!"

Cứ thế chúng tôi quên bẵng mất đàn trâu và không hề biết Cu Nhỡ và Sừng Măng đã hẹn nhau đấu phân vai. Anh hùng vô song! Phải có một con làm đàn em con kia. Như một cuộc đấu vì danh dự, hai con vật đều tỏ ra đàng hoàng. Nhận được lời thách Cu Nhỡ tách đám trâu cái luôn sán bên nó, tiến về điểm hẹn. Con Sừng Măng cũng lợi dụng hai cô chủ mải kiếm rau, đã rất sẵn sàng đón đợi. Cu Nhỡ ghếch cổ lên chào. Sừng Măng gật đầu đáp lễ. Cu Nhỡ hỏi: "Ông nghĩ kỹ chưa?". Sừng Măng đáp: "Thằng oắt con lêu lổng, để xem mày được mấy hơi".

Hai con vật phóng vào nhau bằng tất cả niềm căm thù bấy lâu bị dồn ép. Con Sừng Măng không vội đánh. Nó chỉ né tránh những nhát đòn trời giáng của Cu Nhỡ. Hăng máu vì liên tiếp trượt đòn, Cu Nhỡ càng lồng lên, mắt đỏ như lửa. Mặt đất ầm ầm rung động đến mức vợ chồng chèo bẻo quên cả đánh chúng tôi, dỏng tai lên nghe ngóng.

Cu Nhỡ vẫn lao vào như hóa dại nhưng không sao dứt điểm được với lão Sừng Măng. Con Sừng Măng vốn lõi đời trong nghề giang hồ, vẫn trơ ra như đá, "Thằng tráng niên ngu ngốc, liệu mà ông cho mày hết thói huênh hoang". Phầm! "Lão già quỷ quyệt, thời của lão còn đâu nữa". Phầm! "Đánh với chác! Mày chỉ được cái tài lừa bọn đàn bà con gái". Phầm! Phầm! Phầm!... Đất dưới chân Cu Nhỡ tung lên. Một mũi sừng của nó đã gại được vào yết hầu của con Sừng Măng, đủ làm đỏ một đám ruộng.

- Chết cha con Sừng Măng đi! Chết cha quân bóc lột đi!

- Gọi chị em Quý Anh ra đây mà xem Cu Nhỡ lột da con Sừng Măng.

Nhận được lời cổ vũ, Cu Nhỡ càng lao vào như điên. Tuy trúng đòn, con Sừng Măng vẫn không hề nao núng. Nó xoay người một cách mau lẹ, lựa đối thủ vào miếng. Cu Nhỡ hở đòn do một giây chủ quan khiến mảng yết hầu phơi ra trước cặp mắt lão Sừng Măng cáo già! Phụp! Chiếc sừng sắc như dao cắm quá nửa vào cổ Cu Nhỡ.

Nhưng giết Cu Nhỡ có lẽ không phải mục đích trận đấu của Sừng Măng. Nó sẽ buồn chán khi không còn kẻ nào đáng mặt thán phục nó. Nhưng nó phải dạy cho gã tráng niên ngu ngốc kia hết thói hợm đời. Rút khỏi cổ Cu Nhỡ, Sừng Măng luồn ngay chiếc sừng đỏ máu ấy vào giữa đoạn sừng đối thủ rồi khẽ lắc nhẹ một cái. Khi Cu Nhỡ thoát ra được trông nó thật thảm hại. Một bên sừng Cu Nhỡ bị gãy, lủng lẳng rủ xuống khiến đến lúc già nó còn khổ sở vì bị đám trâu cái coi thường. Con Sừng Măng phóng theo một đoạn, cốt cho đúng luật rồi tế một mạch đến cúi đầu chịu tội trước hai cô chủ.

Bọn trẻ chúng tôi sững sờ một lúc rồi ùa xuống cầm đất ném chí tử vào con Sừng Măng. Lúc đầu con vật gườm gườm nhìn lại. Nhưng bọn trẻ chúng tôi dùng cả lửa quăng lên lưng con vật khiến nó tung vó chạy thục mạng. Bọn trẻ đang cơn khát trả thù bèn quay sang túm lấy hai chị em Quý Anh. Con Quý Hương so vai rụt cổ, mặt cắt không ra máu. Nó được ưu tiên còn bé, tha cho về trước nhưng cấm không được hé với người lớn nửa lời.

Quý Anh bị túm tóc lôi ra trước bãi đấu. Nó ngầm đưa mắt cho tôi, đầy lên lời van xin được cứu mạng. Tôi muốn gàn đám bạn chăn trâu nhưng rất sợ bị chúng gán cho tội có tình ý với con địa chủ. Trời sập tối rất nhanh. Bình thường như mọi khi, chờ trăng lên là chúng tôi dong trâu về. Nhưng mải "tra tấn" Quý Anh, chúng tôi bỏ mặc vầng trăng chơ vơ một mình.

Quý Anh bị trói vào một cây phi lao cụt ngọn, miệng mím chặt nhìn vào cánh đồng mênh mông. Đám trẻ ồn ào phân công nhau kiếm phương tiện tra tấn. Một đứa thò ngay chân xuống nước để nhử lũ đỉa đói bám vào rồi bắt lấy. Cái giống thân mềm này chỉ cần nom thấy đã ghê tởm. Vậy mà lát nữa nó sẽ bò loe ngoe trong ngực Quý Anh. Một tụi khác chạy tản đi rình tóm những con loăng quăng lúc nào cũng nhan nhản trên đường. Những con loăng quăng không làm chết được ai, nhưng chỉ cần chạm vào nó đã đủ chết khiếp. Chúng tôi thấy trước tiếng rú thảm thiết của con bé bị trói kia. Với riêng tôi có lẽ do trái tim mách bảo, tôi còn nghe thấy cả tiếng thì thầm: "Lên trên trời tôi sẽ bóp cổ cậu".

Tôi chùng chình nán lại trước khi đám trẻ chăn trâu chạy tản đi thực hiện nhiệm vụ của từng đứa. Khi tôi quay nhìn Quý Anh, tôi thấy mắt nó sáng như hai viên bi thủy tinh. Tôi chạy vụt đến bên cây phi lao cụt, quỳ hẳn xuống dùng cả răng lẫn tay dứt tung lớp dây quấn từ ngực đến chân Quý Anh.

- Chạy đi!

- Cậu Tư chạy với cháu.

Chúng tôi nhằm bờ đê, chạy lọp bọp qua ruộng nước. Giả sử lũ bạn tôi có nhìn thấy, chúng cũng tưởng đồng bọn đang đuổi con rắn nước nào đó. Và lát nữa trở lại nếu không thấy Quý Anh đâu, thì chính chúng lại đem lũ con vật ra tra tấn. Những con đỉa sẽ bị kẹp vào giữa ống cỏ, suốt cho đứt đôi. Kỳ đến chán trò đứa nào đứa ấy mới lo cuống lên tìm trâu của mình.

Chúng tôi chui vào một chiếc hầm tránh bom nổi trên bờ đê. Quý Anh chưa hết run ngồi nép vào vai tôi.

 - Cậu Tư bao nhiêu tuổi?

- Mười lăm... còn mày?

- Cháu mười bốn.

- Sao mày nhớn thế?

- Cháu là con gái mà. Cậu Tư xem này...

Quý Anh cầm tay tôi thản nhiên đặt vào ngực nó. Xin thề là bàn tay tôi lúc ấy trong trắng như thiên thần nên tôi rất thích chí trước một bí mật. Tôi lật úp lật ngửa bàn tay, cốt để xoa lên hai trái vú mềm như nhung, hơi răn rắn ở đầu, không gợi lên một vụ lợi nào; tựa như tôi vẫn xoa đầu con mèo, hay vạch quần tóm chim thằng bé con nào đó...

- Cháu mặc quần "con" rồi đấy.

- Để làm gì?

- Cậu chả biết được. Mới lại phải tội chết... Sau này lớn lên nhất định cháu với cậu đẻ chung một đứa con. Chỉ cần cậu sờ ngực cháu như lúc nãy là cháu đẻ.

Đêm hôm ấy, sau một hồi hút chết vì mất trâu, tôi nằm mơ được ngủ với cô tiên. Chợt khi cô kéo đầu tôi vào ngực cô, có cái gì rút dọc sống lưng tôi. Cô tiên cười đưa cho tôi bông hoa thần lấy từ trong ngực cô. Tôi lên cơn sốt mê man, mặt mày xây xẩm như bị ai bắt vía. Sáng ngày ra tôi thấy mẹ lo lắng nhìn tôi:

- Có làm sao không hả mẹ?

- Chuyện bình thường con trai mẹ ạ. Từ giờ con là một chàng trai và phải có trách nhiệm với việc làm của mình.

Tôi từ giã tuổi thơ bằng một giấc mơ.

* * *

Bố tôi kể:

Làng Đồng xưa kia vốn chỉ là bãi đất bằng dùng làm nơi để cày bừa nhà chánh tổng. Trong năm gia đình đầu tiên đặt tên "Đồng" cho làng tôi có ông tổ bốn đời của tôi. "Đồng" có nghĩa là cùng một lòng, cùng một chí hướng và cùng lấy một họ. Về sau dân tứ chiếng kéo đến. Đôi vợ chồng phu phen phiêu bạt trên đường kiếm ăn; một ông cướp chán nghề, quàng vào một ả nào đó tự dưng thích sống yên ổn. Rồi có khi là ông mõ làng khác bị đuổi, đến xin giữ nguyên nghề... Làng rộng dần ra cho đến bây giờ.

Thấy cái miếng đất "gan chó" trở nên màu mỡ riêu cua, chánh tổng xin quan huyện cho đặt lý trưởng. Lão Hứa nhảy tót lên ngồi mâm nhất. Cũng bắt đầu từ đó chữ "Đồng" mất hẳn ý nghĩa bởi làng bị cắt thành năm, bảy miếng, do năm, bảy ông anh bà chị "hùng cứ một phương". Tuy nhiên tất cả đều bị đặt dưới sự kìm tỏa của lão Hứa.

Không biết từ bao giờ làng có lời nguyền: con trai con gái trong làng không được lấy nhau? Sau khi lão Hứa bị tước triện bạ và chính quyền của lão sụp đổ, lời nguyền kia không những không mất đi mà còn có thêm những lý do bổ sung để tồn tại một cách rất tai quái. Chính quyền của lão Hứa đã rất thành công khi tạo ra những mối hằn thù sâu sắc giữa những cuộc đời đều phải đánh vật để kiếm sống. Người ta bắt đầu lục lại gia phả để định giá trị từng nhóm họ. Bố tôi là chủ tịch xã nên nhóm họ của ông thuộc loại danh giá nhất. Theo đó đến cánh nhà ông phó Hộ, rồi đến cánh các ông phó Nhất, Nhị, Tam... Bất cứ mối quan hệ nào cũng bị đem ra xét xử thật sự.

Đã từng xảy ra một thảm kịch yêu đương ở làng Đồng. Một cô gái thuộc nhóm họ có ông tổ làm nghề cướp, đem lòng yêu chàng trai bạ cư ở đầu làng. Họ đã cố hết mức để chỉ hai người biết với nhau. Nhưng làm sao mà giấu kín được bất cứ chuyện gì ở làng tôi? Bên nhà gái như động mả, họp nhau lại vật ngửa cô gái ra, cạo trọc đầu bôi vôi, dọa sẽ trầm hà nếu không đích thân tố cáo anh chàng kia can tội rủ rê. Chàng trai bị điệu ra trước hội nghị nhân dân (hội nghị nhân dân hẳn hoi) để lĩnh hàng trăm lời nguyền rủa. Anh bị đặt trước hai điều kiện: Hoặc phải quỳ xuống xin lỗi cả làng, hoặc cút về cái nơi ông bố bà mẹ tội lỗi đã sinh ra anh.

Tuy bố tôi lúc ấy đang nổi tiếng vì có tầm nhìn xa, khi được hỏi ý kiến cũng tặc lưỡi: "Lệ làng thế nào cứ vậy mà làm". Trong thâm tâm ông biết điều đó là sai. Nhưng sự nghiệt ngã trước cái nghĩa vụ phải bảo vệ danh giá cho nhóm họ mình, đã đẩy ông đến chỗ hành động theo cảm tính. Có lẽ mọi chuyện sẽ qua nếu hàng tháng sau tình yêu của đôi trai gái nọ không bị đem ra phỉ báng như một tội lỗi. Một đêm đôi trai gái ấy hẹn nhau ở ngôi nhà thờ Tổ của làng. Sau khi nguyền rủa cả trái đất, họ đã hiến thân cho nhau và chết trần truồng trên bệ thánh.

Sự kiện đó tác động trước hết đến các bà mẹ. Bắt đầu từ tuổi đi học, mỗi chúng tôi đều được kể cho nghe rành rẽ về từng nhà một trong làng. Tựa như đứa nào dại dột quan hệ với con nhà này nhà nọ sẽ bị tuyệt nòi tuyệt giống vì phải trả nợ thay "ông tổ năm đời nhà nó đức mỏng như bàn tay". "Thằng bố nó ngày xưa chuyên đi lừa lọc". "Cái năm Cải cách, con mẹ nó chả vơ từ cái sanh thủng"... Với riêng tôi và anh chị em tôi, đứa nào cũng thấm đẫm vào trí nhớ một câu bất hủ: "Lão Hứa và con cháu lão là kẻ thù truyền kiếp".

Ai ngờ tôi là đứa phản bội bố tôi trước tiên. Mặc dù tôi được dạy dỗ khá cẩn thận về địa vị gia đình mình, nhưng hễ gặp Quý Anh là tôi quên tất. Quý Anh vào tuổi mười bảy, đẹp như tiên sa. Tôi sẵn sàng cãi nhau với bố để bênh vực Quý Anh.

Một hôm bố tôi đi họp về, quăng chiếc cặp lên bàn là quát gọi mẹ tôi.

- Bà có biết chuyện gì đã xảy ra trong cái nhà này không?

Mẹ lo lắng nhìn tôi:

- Tư! - Bố tôi quay sang tôi - Mày quan hệ với con Quý Anh từ bao giờ?

- Từ ngày chúng con để chỏm.

Bố tôi ngã uỵch xuống ghế, thở dốc. Ông căm ghét nhìn về phía tôi nhưng không ngớt nguyền rủa mẹ tôi. Chờ còn hai mẹ con, mẹ tôi mới mếu máo hỏi tôi:

- Con nói thật đi, có đúng con giăng dện với con Quý Anh không?

- Con yêu cô ấy.

- Trời đất ơi! - Bà tru tréo - Mày có biết nó mang dòng máu của ai trong người không? Của kẻ đã giết ông và chú mày.

Thấy tôi im lặng, mẹ dịu giọng:

- Có đời thuở nhà ai lại thế bao giờ. Rồi cả làng người ta ỉa vào cửa nhà mày. Con không thấy anh em phó Hộ nó đặt vè đấy à.

- Mẹ chấp làm gì bọn loạn luân ấy...

- Mày phải thôi ngay hoặc tao thắt cổ tao chết.

- Thì thôi! - Tôi gắt lên - Con trai mẹ chả cao giá lắm đấy.

- Dù sao con cũng phải nghĩ đến bố con. Khối kẻ chỉ chờ nhà ta hở ra là chọc vào, con có lớn mà không có khôn.

Chưa bao giờ tôi căm ghét đồng loại đến thế. Nửa đêm tôi lẻn dậy trốn khỏi nhà cùng với cây vồ sàn bằng gỗ lim. Đây rồi, sự ngu ngốc, thói dởm đời, lòng thù hận, đều vì những cây nấm độc này. Tôi đập nát tất cả bảy chiếc miếu thờ để suốt đêm ấy ngồi khóc âm thầm như kẻ bị ruồng bỏ.

* * *

Bây giờ các vị đã nằm cả ở đây, nơi trước kia chỉ là cái gò con ngựa. Bỗng dưng tôi cảm thấy cô đơn. Đời người thật ngắn ngủi. Đôi khi có cảm giác người ta chưa kịp để lại gì cho trần thế, đã mất hút trong sự lãng quên khắc nghiệt. Không biết ở dưới mồ có còn vị nào chưa yên giấc? Tôi tha thứ cho các người. Bởi vì ngày ấy cũng đã mười năm. Mười năm đủ cho tôi thấm nỗi đau của cả mấy thế hệ mà số phận bị nhào nặn bằng một bàn tay phàm tục.

Giờ đây ở giữa sự hoang lạnh của khu nghĩa địa, tôi lại nhớ đến cái đêm khủng khiếp ấy. Tất cả các vị đang nằm ở đây đều có mặt để xét xử chúng tôi. Đêm ấy không có trăng nhưng đầy sao và hương thơm mùa màng tỏa ra từ đất. Lần đầu tiên trong đời, trái tim tôi nóng như hòn than cháy ngún trong ngực, khi tôi biết cảm nhận sự kỳ diệu của da thịt... Tôi và Quý Anh, hai kẻ trong trắng như nhau, tội lỗi như nhau đã bước qua lời nguyền, đã ân xá cho nhau trong sự chứng kiến của các thiên thần. Và đêm  ấy các vị đã bọc chặt chúng tôi bằng dáo, mác, bằng nỗi căm ghét phi lý. Dưới ánh đuốc các vị có thể thấy rõ dù chết chúng tôi cũng không rời nhau. Vậy mà các vị cứ quấn chặt chúng tôi bằng vòng lửa của địa ngục khiến tôi hét lên:

- Đâm đi! Các người cứ lấy máu chúng tôi sẽ thấy nó mặn như nhau, đỏ như nhau... vì chúng tôi được hoài thai từ một bà mẹ nhân hậu hơn bà mẹ đã sinh ra các người.

Cả làng - hẳn các vị còn nhớ - đã không ai dám tiến thêm nửa bước. Tôi gào tiếp:

- Các người chỉ quen để ý nhau từng lời, từng chữ, rình xem mâm cơm nhà khác có thịt cá không để quy kết, bôi nhọ. Nhưng làng xóm tiêu điều thì các người bỏ vẳng. Các người thành kính dựng người chết dậy để thờ trong khi đó nhẫn tâm đẩy kẻ đang sống đang yêu xuống mồ, chúng tôi căm ghét và thương hại các người.

Tôi biết tóc bố tôi bạc đi khủng khiếp một phần cũng vì những đau khổ tôi trút lên cuộc đời Người.

* * *

Mọi việc tôi làm trong kỳ nghỉ phép đều không lọt mắt bố tôi. Ông đáp trả bằng sự im lặng. Đợi đến khi tôi xếp đồ vào ba lô, ông mới bất ngờ hỏi:

- Tại sao con Quý Anh nó không đến?

- Cô ấy sợ.

Bố tôi gục xuống và khi ông ngẩng lên tôi tưởng như không tin vào mắt mình: mặt ông bị vò nát bởi hàng trăm nếp gấp khắc nghiệt. Trên khuôn mặt ấy tôi thấy lại cái quá khứ vật vã đẫm máu và nước mắt mà bố tôi vừa căm ghét vừa hãnh diện. Trên khuôn mặt ấy như vừa thoáng hiện hình ảnh ông tôi, chú tôi, bị xé nát trong tiếng kêu cứu tuyệt vọng. Giá còn nước mắt hẳn ông đã khóc. Tiếng ông khô khốc:

- Chờ nhau ngần ấy năm... thời buổi này không dễ có mấy người. Anh chị đã quyết, tôi cũng không dám cản. Nhưng tôi chỉ xin ở anh một yêu cầu.

- Vâng, bố cứ nói.

- Anh hãy đợi khi nào tôi chết hẵng đưa nó về ở cái nhà này. Tôi biết nói ra điều ấy không xứng đáng với một ông bố. Nhưng tôi không thể... anh hiểu ý nguyện của tôi chứ?

Bố tôi lại gục xuống như vừa bị cả một khối nặng khủng khiếp đè lên vai. Hình như ông đã khóc được...

Sông Đà, tháng 4-1989

Hà Nội, tháng 11-1989

TẠ DUY ANH

Ảnh năm tôi viết "Bước qua lời nguyền"

Tạ Duy Anh - Bước qua lời nguyền (1)

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire

Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.