Trước làn sóng người nhập cư đổ vào châu Âu hiện
nay, người Pháp vẫn có tâm lý e ngại, thờ ơ, cho đến khi những hình ảnh
thương tâm của em bé Syria chết đuối đánh động được dư luận. Tâm lý này
tương phản với phong trào cứu vớt thuyền nhân Việt Nam vào cuối thập
niên 70.
Vào thời kỳ đó, một
phong trào đầy cảm động đã nổi lên ở nước Pháp và nhiều quốc gia phương
Tây khác, nhằm cứu vớt hàng chục ngàn thuyền nhân chạy trốn chế độ cộng
sản Việt Nam trong các điều kiện bi thảm, và cả người Cam Bốt, người
Lào.
Vô số hình ảnh những con tàu nhỏ bé trôi dạt trên Biển Đông
được phổ biến rộng rãi, đã thức tỉnh lương tâm mọi người. Những hình
ảnh này cũng giống những gì thấy được trên báo chí trong mấy tháng gần
đây : những ánh mắt hoảng loạn, những thân người kiệt sức, chen chúc
trên những con tàu thô sơ ở Địa Trung Hải.
Nhưng bối cảnh rất khác
nhau. Nước Pháp vào lúc ấy với tỉ lệ thất nghiệp thấp (chỉ 3,3%, còn
nay là 10%), đã nhiệt tình đón tiếp. Hơn nữa người Việt và người Cam Bốt
đến từ Đông Dương thuộc Pháp cũ, biết được ngôn ngữ và ít nhiều thấm
đẫm văn hóa Pháp, trong khi di dân hiện nay đa số là người Hồi giáo.
Đặc
biệt là sự dấn thân ngoạn mục của giới trí thức Pháp thời ấy, cả cánh
tả lẫn cánh hữu, từ nhà văn đồng thời là nhà triết học nổi tiếng
Jean-Paul Sartre cho đến Raymond Aron – nhà báo kiêm nhà sử học, triết
gia, chính khách.
Cuối năm 1978, tàu Hải Hồng chở 2.500 người Việt
Nam đã đến được Malaysia nhưng bị đẩy ra, phải trôi dạt 45 ngày trên
biển từ bến này sang bến khác, đã gây xúc động lớn. Các nhà báo quay
phim những cảnh khốn khổ của thuyền nhân trên tàu trong đó có nhiều trẻ
em: thiếu thức ăn, nước uống, thuốc men, trốn tránh ánh nắng đổ lửa dưới
những tấm bạt rách nát. Cuối cùng, các nước châu Âu quyết định tiếp
nhận những người Việt tị nạn này.
Bị chấn động trước số phận chiếc tàu vô tổ quốc, và thảm kịch của những người mà người ta bắt đầu gọi là « boat people »,
nhiều nhân vật tiếng tăm của Pháp tập hợp xung quanh bác sĩ Bernard
Kouchner và triết gia André Glucksmann, năm 1979 đã quyết định tung ra
chiến dịch « Một con tàu cho Việt Nam ».
Họ vận động quyên góp để cải tiến một chiếc tàu mang tên « L’île de lumière »
(Đảo Ánh sáng) thành một tàu bệnh viện, đi vớt các thuyền nhân khác
trên Biển Đông, rồi thả neo ở đảo Palau Bidong (Malaysia) để các bác sĩ
Pháp tình nguyện chăm sóc cho 34.000 người Việt bị giam trên đảo.
Các nhà trí thức lớn Jean-Paul Sartre, Raymon Aron và André Glucksman (đứng) chung sức cứu thuyền nhân Việt. |
Ủy ban « Một con tàu cho Việt Nam »
được thành lập, được nhiều nhân vật lỗi lạc ủng hộ : triết gia Michel
Foucault, giáo sĩ Do Thái Josy Eisenberg, Đức Hồng y François Marty, nhà
văn Đức Heinrich Boll, ca sĩ kiêm diễn viên Yves Montand…
Ông
Michel Rocard, chính khách đảng Xã hội chống lại chủ nghĩa cộng sản, ký
vào bản kiến nghị nhưng Tổng thư ký đảng là ông François Mitterrand thì
không. Một bộ phận trong cánh tả Pháp vẫn e dè vì nhiều người vẫn coi
chủ nghĩa cộng sản là một mô hình để noi theo.
Cảm động nhất là sự
ủng hộ của nhà văn mác-xít Jean-Paul Sartre và nhà trí thức lớn chủ
trương tự do Raymond Aron, hai nhân vật này vốn không nhìn mặt nhau suốt
30 năm qua. Hôm 20/09/1979, Tổng thống Valéry Giscard d’Estaing đã hội
tụ ở điện Elysée nhiều tên tuổi, trong đó hai trí thức lừng lẫy trên đã
siết chặt tay nhau. Đó là một hình ảnh gây tác động mạnh mẽ, chứng tỏ
một nước Pháp đoàn kết, ít nhất là trong chủ đề thuyền nhân Việt.
Nhân
dịp này, nhà văn nổi loạn Jean-Paul Sartre đã trở thành nhà hoạt động
nhân đạo. Ông nhắc lại những từ ngữ mà chính ông đã chỉ trích nhà văn
Albert Camus 25 năm về trước : « Tôi ủng hộ những con người mà có lẽ
không phải là bạn tôi vào thời kỳ Việt Nam đấu tranh cho tự do, nhưng
điều này có quan trọng gì, vì đó là những người đang gặp nguy hiểm đến
tính mạng ».
Tiếp bước triết gia Aron, cánh hữu Pháp trở nên
thoải mái hơn trong hồ sơ này. Đô trưởng Paris là ông Jacques Chirac
đưa ra lời kêu gọi tiếp đón boat people, và bản thân ông cũng nhận một
thuyền nhân trẻ Việt Nam – cô Anh Đào – làm con nuôi.
Năm năm sau đó, vào năm 1984, một nhóm nhạc rock Pháp mang tên Gold phát hành một album trong đó có bản nhạc « Gần bên những ngôi sao », nhằm vinh danh thuyền nhân Việt Nam, đã thành công rực rỡ với 900.000 đĩa bán ra.
Thuyền nhân đổ bộ lên đảo Lesbos, Hy Lạp ngày 10/09/2015. |
Từ
năm 1975 đến 1985, trên một triệu người Việt đã bỏ trốn khỏi đất nước,
trong đó có 800.000 boat people, và theo các nhà nghiên cứu, một phần tư
những người vượt biên đã thiệt mạng.
Vì sao cuộc khủng hoảng di
dân hiện nay không tạo nên được một làn sóng tương trợ như đối với
thuyền nhân Việt Nam cuối thập niên 70 ? Bên cạnh nguyên nhân kinh tế và
văn hóa như đã nói ở trên, còn có nhiều lý do khác.
Đợt sóng
thuyền nhân Việt mang tính giai đoạn, trong khi áp lực dân số ở châu
Phi, sự phức tạp của những cuộc xung đột ở lục địa đen và Syria, quân
thánh chiến đủ các phe nhóm có thể tạo nên những cuộc di dân hàng loạt
kéo dài.
Nhiều người còn nêu lên mặc cảm của cánh tả Pháp, trước
đây ngưỡng mộ chủ nghĩa mác-xít, nên giang tay cứu vớt những người tị
nạn cộng sản như một cách chuộc lỗi. Còn trước Hồi giáo cực đoan hiện
nay, châu Âu không có cùng tình cảm này, ngược lại còn là nạn nhân. Bên
cạnh đó, vai trò của trí thức Pháp cũng không còn như 36 năm về trước.
Thế
nên cách đây vài tháng, khi xảy ra hàng loạt vụ chìm tàu làm chết hàng
ngàn người trên biển, cũng đã có những lời kêu gọi tương trợ. Nhưng rốt
cuộc, Địa Trung Hải năm 2015 không phải là vịnh Thái Lan năm 1979, và « Đảo Ánh sáng» đã không xuất hiện tại đây.
tags: Châu Âu - Quốc tế - Nhập cư - Tị nạn - Phân tích - Xã hội - Pháp - Việt Nam - thuyền nhân
http://vi.rfi.fr/quoc-te/20150911-vi-sao-di-dan-khong-duoc-thuong-cam-nhu-thuyen-nhan-viet-1979
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.