TUYÊN BỐ VỀ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO QUỐC GIA VIỆT NAM
CỦA CÔNG DÂN VÀ CÁC TỔ CHỨC
XÃ HỘI DÂN SỰ VIỆT NAM (dịch sang các tiếng Anh,
Pháp, Trung và Đức; cập nhật đợt cuối: 10 tổ chức, 278 cá nhân ký tên)
Ngày 27 tháng 6 năm 2017
Lần đầu tiên, một lãnh đạo
Trung Quốc sang Việt Nam – tướng Phạm Trường Long – đã tuyên bố công khai, trực
tiếp với lãnh đạo Việt Nam, rằng “vùng lãnh hải Biển Đông là thuộc chủ quyền
Trung Quốc từ thời cổ đại”, điều mà Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã phát
biểu tại Singapore sau khi rời Việt Nam, mà không dám nói khi còn ở Việt Nam.
Phạm Trường Long, đại diện
lập trường bành trướng của Trung Quốc, đã tiến thêm một bước khiêu khích mới,
đe dọa chủ quyền Việt Nam, đồng thời Trung Quốc tiến hành manh động gây hấn ở lãnh
hải và một số điểm trên đất liền của Việt Nam.
Dù yêu chuộng hòa bình hữu
nghị, và đã từng trải qua chiến tranh, nhân dân Việt Nam không sợ hãi và kiên
quyết chống lại cuộc xâm lấn của nhà cầm quyền Bắc Kinh, như đã từng thể hiện
qua lịch sử mấy ngàn năm chống giặc Tàu xâm lược.
Chúng tôi, các công dân
Việt Nam và các hội đoàn xã hội dân sự Việt Nam, long trọng tuyên bố:
1) Phản bác và lên án các
hành vi xâm lược lãnh hải, lãnh thổ Việt Nam của nhà cầm quyền Bắc Kinh đang diễn ra.
Dù bất cứ tình huống nào, sự đánh trả của nhân dân Việt Nam để bảo vệ đất nước là tất yếu.
2) Nhân dân Việt Nam đồng
lòng, đoàn kết, gác bỏ mọi khác biệt và ủng hộ tất cả các Nhà nước của Quốc gia
Việt Nam ở mọi thời kỳ, trong cùng lập trường bảo vệ chủ quyền quốc gia, chống mọi
hành động xâm lược.
- Tại Hội nghị quốc tế San
Francisco – Mỹ, 1951, Thủ tướng Chính phủ Quốc gia Việt Nam Trần Văn Hữu đã
khẳng định quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa thuộc Việt Nam, và được hội nghị công
nhận.
- Chính phủ VNCH (Miền Nam), 1974, đã chiến đấu quyết liệt chống quân
Trung Quốc xâm lược Hoàng Sa, tuy thất bại nhưng tinh thần không khuất phục.
- Chính phủ CHXHCN Việt Nam, sau khi thống nhất đất nước, dưới thời
Tổng Bí thư Lê Duẩn 1979 đã tiến hành cuộc đánh trả oanh liệt cuộc xâm lăng 6
tỉnh miền Bắc Việt Nam. Tuy Việt Nam chưa giành lại được 6 đảo ở
Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa còn bị Bắc Kinh chiếm đóng, nhưng năm 2011 trước
Quốc hội Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tiếp tục khẳng định chủ quyền của Việt
Nam về Hoàng Sa và Trường Sa. Chính phủ Việt Nam cũng có những tuyên bố khác có nội dung
thống nhất như trên. Và Quốc hội Việt Nam đã công khai thừa nhận là Việt Nam chưa hoàn thành nhiệm vụ lịch sử khôi
phục sự toàn vẹn lãnh thổ.
Lập trường của nhân dân
Việt Nam và sự nhất quán của các Chính phủ của Quốc gia Việt Nam đã rõ ràng trong suốt chiều dài lịch sử. Tham
vọng ngông cuồng, lạc thời đại của bè lũ Bành trướng Tập Cận Bình – Phạm Trường
Long không tránh khỏi sự thất bại thảm hại.
3) Nhân dân Việt Nam luôn
ghi nhận và tri ân các thế hệ quân đội thuộc các thời kỳ, đã chiến đấu và hy
sinh vì Tổ quốc, để chống các loại giặc ngoại xâm bất cứ từ đâu đến và dưới màu
sắc nào.
4) Cải thiện nội trị là
điều khẩn thiết để có nội lực hùng mạnh bảo vệ Tổ quốc chống ngoại xâm. Các
tầng lớp nhân dân đang phấn khích, ủng hộ và theo dõi xu thế làm trong sạch bộ
máy nhà nước, và cải tổ về mọi lãnh vực: kinh tế, y tế, giáo dục, quốc phòng,
tư pháp. Đặc biệt, canh tân quân đội, từ bỏ sự sa đà vào lợi ích nhóm bất
chính, chấn chỉnh hệ thống hành chánh quan liêu, diệt trừ tham nhũng. Và quan
trọng hơn hết là từ bỏ hệ tư tưởng lạc hậu ảo tưởng, sửa Điều 4 Hiến pháp nhằm
hiệu chính vai trò của Quốc hội, tăng cường sức mạnh đoàn kết của nhân dân, thực
thi nền dân chủ cho kịp đà tiến của thời đại.
Tổ quốc là trên hết, gác
lại quá khứ, chấp nhận khác biệt.
Chúng tôi kêu gọi các tầng
lớp nhân dân, các tổ chức xã hội dân sự, các thành viên trong bộ máy nhà nước,
cùng đồng bào Việt Nam ở nước ngoài, ủng hộ tuyên bố này.
Chúng
tôi kêu gọi nhân dân các nước ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa, bảo vệ chủ
quyền quốc gia Việt Nam theo công ước quốc tế, góp phần bảo dưỡng môi trường
tài nguyên vùng biển, đảm bảo tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông.
Xin
ký tên ủng hộ bản Tuyên bố này qua địa chỉ biendongtuyenbo@gmail.com.
English version:
STATEMENTS BY CITIZENS AND
CIVIL ORGANIZATIONS OF VIETNAM ABOUT SOVEREIGNTY ON VIETNAMESE WATERS
AND ISLANDS
Ho Chi
Minh City June 27/6/2017
Recently, Fan Changlong, a
Communist China leader made official statements to the leaders of Vietnam in Hanoi: "The islands in the China Sea have belonged to China since antiquity". Even the Chinese
President Xi Jinping did not dare to do such a thing in Vietnam. He only did it in Singapore after leaving our country.
As the representative of
the Chinese hegemonic lines, Fan Changlong took a new step in the provocation
and threats against Vietnamese sovereignty. At the same time, China is deliberately attacking some parts of
the continental shelf and the national territory of Vietnam.
The Vietnamese people,
enamored of peace and friendship, even after having suffered so many wars, is
determined to struggle obstinately against these aggressions carried out by the
Chinese leaders. Our people have proved throughout their millenary history,
this unwavering will of resistance against Chinese aggression.
We, citizens and civil
organizations of Vietnam, make the following solemn declarations:
1. We reject and condemn
the actions of the current aggressions of the Beijing leaders against the waters and
territories of Vietnam. In all circumstances, our fight for the
defense of our country is an absolute necessity!
2. In all the epochs of its
history, the Vietnamese people were united in the support of the Vietnamese
states in the struggle for the defense of the sovereignty of Vietnam against the external aggressions.
- At the International
Conference in San Francisco in 1951, the Prime Minister of the Republic of Vietnam (South Vietnam) reaffirmed that the Hoang Sa-Truong Sa
Islands were belonged to Vietnam. And this position was approved by all
participating delegates.
- The Republic of Vietnam (South Vietnam) carried out a heroic but unsuccessful
struggle against the Chinese aggression at Hoang Sa in 1974.
- In 1979, under the
leadership of General Secretary Le Duan, the Socialist Republic of Vietnam
stubbornly resisted Chinese aggression on the 6 provinces bordering North Vietnam.
Although the Hoang Sa
archipelago and the 6 Truong Sa islands remain still occupied by China, Prime Minister Nguyen Tan Dung
reaffirmed Vietnam's rights on Hoang Sa and Truong Sa
islands before the National Assembly. This consistent position was subsequently
confirmed in various statements. Among other things, the National Assembly has
officially recognized the fact that Vietnam has missed its historic duty in restoring
territorial integrity.
The unfailing position of
the Vietnamese people and successive governments is constant throughout our
history. The extravagant and out-of-date ambitions of Xi Jinping - Fan
Changlong will certainly encounter lamentable failures!
3. The Vietnamese people
always express their deep gratitude to their armed bodies, which have fought
and sacrificed themselves for their fatherland in the struggle against the aggressors
from wherever they come and under any color.
4. Internal consolidation
is the sine qua non condition of strengthening the country's defense forces
against invasion. The different layers of the Vietnamese population are
enthusiastically following and firmly supporting the State's transparency
policy, the policy of reforming the economy, health, national education,
national defense, justice ... Particularly, the reform of the army, the
abandonment of financial interests related to particular selfish groups, the
reorganization of the bureaucratic administration system, the liquidation of
corruption. The most important of all, will be the abandonment of ideological
illusions, the amendment of Article 4 of the Constitution to restore the rights
of the National Assembly, strengthen national unity, achieve democracy in order
to catch up with the times.
The country must be above
all. The past must be put on hold, the difference must be accepted.
We appeal to all segments
of the population, all civil and social organizations, all members of the
apparatus of the state and all Vietnamese compatriots living both in Vietnam and abroad to support the present
declarations.
We also appeal to the
people of the world to support our just struggle for the defense of Vietnamese
sovereignty, in accordance with international laws, for the protection of the
environment, for the preservation of natural resources, guaranteeing the
freedom of maritime and air navigation, for the international legal order, in China Sea.
If you are supporting these
declarations, please provide your contact information (surname and first name,
occupation, place of residence) via the following e-mail address:
Ho Chi
Minh City, June 27/2017
Version français
DÉCLARATIONS DES CITOYENNES-CITOYENS ET DES ORGANISATIONS
CIVLES DU VIETNAM À PROPOS DE LA SOUVERAINETÉ SUR LES EAUX ET LES ÎLES
VIETNAMIENNES
Ho Chi Minh ville le 27/6/2017
Récemment, Fan Changlong, un dirigeant de la Chine
communiste a pour la première fois, fait des déclarations officielles devant
les dirigeants du Vietnam à Hanoi : « Les iles dans la mer de Chine
appartenaient à la Chine depuis l’antiquité ». Même le Président Chinois
Xi Jinping n’osait pas fait une telle chose au Vietnam. Il l’a fait seulement à
Singapore après avoir quitté notre pays.
Etant le représentant des lignes hégémoniques chinoises,
Fan Changlong a fait un nouveau pas dans la provocation et les menaces contre
la souveraineté vietnamienne. En même temps, la Chine procède à des agressions
délibérées sur quelques endroits de la plate-forme continentale et le
territoire national du Vietnam.
Le peuple vietnamien, épris de paix et de l’amitié, même
après avoir subi tant de guerres, est déterminé à lutter avec opiniâtreté
contre ces agressions menées par les dirigeants chinois. Notre peuple a prouvé
tout au long de son histoire millénaire, cette volonté inébranlable de
résistance contre l’agression chinoise.
Nous, citoyens et organisations civiles du Vietnam,
faisons des déclarations solennelles suivantes :
1. Nous rejetons et nous condamnons les actions
d’agressions actuelles des dirigeants de Beijing contre les eaux et les
territoires du Vietnam. En toutes circonstances, notre combat de défense de
notre pays est une nécessité absolue !
2. Dans toutes les époques de son histoire, le peuple
vietnamien s’est montré unis dans le soutien des états vietnamiens dans la
lutte pour la défense de la souveraineté du Vietnam contre les agressions
extérieures.
- A la Conférence Internationale de San Francisco en
1951, le Premier Ministre de la République du Vietnam (Sud-Vietnam) a réaffirmé
l’appartenance des îles Hoang Sa - Truong Sa au Vietnam. Et cette position a
été approuvée par tous les délégués participants.
- La République du Vietnam (Sud-Vietnam) a mené un combat
héroïque mais sans succès contre l’agression chinoise à Hoang Sa en 1974.
- En 1979, sous la direction du Secrétaire Général Le
Duan, la République Socialiste du Vietnam a résisté avec opiniâtreté contre
l’agression chinoise sur les 6 provinces frontalières au Nord Vietnam.
Malgré que l’archipel de Hoang Sa et les 6 îles de Truong
Sa soient restés encore occupés par la Chine, devant l’Assemblée Nationale, le
Premier Ministre Nguyen Tan Dung a réaffirmé les droits du Vietnam sur les îles
Hoang Sa et Truong Sa. Cette position constante a été confirmée par la suite
dans différentes déclarations. Entre autre, l’Assemblée Nationale a reconnu
officiellement le fait que le Vietnam a manqué son devoir historique dans la
restauration de l'intégrité territoriale.
La position sans faille du peuple vietnamien et des
gouvernements successifs est constante tout au long de notre histoire. Les
ambitions extravagantes et hors d’époque de Xi Jinping - Fan Changlong vont
certainement rencontrer des échecs lamentables !
3. Le peuple vietnamien marque toujours sa profonde
reconnaissance envers ses corps armés qui ont lutté et se sont sacrifiés pour
la patrie dans les combats contre les agresseurs d’où qu’ils viennent et sous
n’importe lesquelles couleurs.
4. La consolidation intérieure est la condition sine qua
non du renforcement des forces de défense de la patrie contre l’invasion. Les
différentes couches de la population vietnamienne sont entrain de suivre avec
enthousiasme et soutiennent fermement la politique de transparence de
l’appareil de l’état, la politique de réforme de l’économie, de la santé, de
l’éducation nationale, de la défense nationale, de la justice…
Particulièrement, la réforme de l’armée, l’abandon des intérêts financiers liés
aux groupes particuliers égoïstes, la réorganisation du système de
l’administration bureaucratique, la liquidation de la corruption. Le plus
important de tout sera l’abandon des illusions idéologiques, la modification de
l’article 4 de la Constitution pour remettre en selle l’Assemblée Nationale,
renforcer l’union nationale, réaliser la démocratie afin de rattraper le retard
de l’époque.
La patrie doit être au-dessus de tout. Il faut mettre en
veilleuse le passé, accepter la différence.
Nous faisons appel à tous les couches de la population,
toutes les organisations civiles, sociales, tous les membres de l’appareil de
l’état, tous les compatriotes du Vietnam vivant au Vietnam comme à l’étranger
pour soutenir les présentes déclarations.
Nous
faisons appel aussi au peuple du monde entier à soutenir notre juste lutte pour
la défense de la souveraineté vietnamienne, conformément aux lois
internationales, pour la protection de l’environnement, pour la préservation
des ressources naturelles, garantissant la liberté de navigation maritime et
aérienne, pour l’ordre légal international dans la Mer de Chine.
Si vous
soutenez ces déclarations, veuillez indiquer vos coordonnées (nom et prénom,
occupation, lieu de résidence) via l’adresse d’e-mail suivante:
Chinese
version
越南公民及民间组织关于越南水域与岛屿主权之声明
胡志明市六月27/6/2017
日前,中国共产党中央军事委员会副主席范长龙访问越南时竟对河内越南领导人发表如下声明:“南中国海诸岛自古以来属于中国”。即使是中国国家主席习近平也不敢在越南如此造次,他是在离开我国后于新加坡才发表了类似言论。
作为中国霸权主义的代表之一,范长龙在挑衅和威胁越南主权方面迈出新的危险的一步。与此同时,中国正在蓄谋攻击越南大陆架部分地区和越南部分国土。
即使历经诸次战争,但依旧热爱和平与友谊!不过,越南人民将万众一心坚决反对中国领导人所进行的各种侵略行为,千年历史也不断证明越南人民具有坚定抵制中国侵略的顽强意志和能力。
我们,越南公民及民间组织在此作出以下庄严声明:
1.我们反对和谴责目前北京领导人对越南水域和领土所进行的语言侵略行为。在任何情况下,我们都将为维护国家主权而进行斗争,这是毋庸置疑的!
2.越南人民团结一致,放下内部矛盾,支持在历史上所有时代为维护越南主权而进行斗争的越南政府。
- 1951年,在美国旧金山举办的国际会议上,越南共和国(南越)总理陈文有发表声明,明确黄沙群岛与长沙群岛归属越南,并且得到所有与会代表的支持和大会公认。
- 1974年,越南共和国(南越)在黄沙进行了一场英勇反击中国侵略之战,虽没有成功,但其不屈精神将被世代铭记。
- 1979年,在南北统一之后,越南社会主义共和国在总书记黎笋的领导下,顽强抵制中国在北越与中国接壤的6省所进行的侵略。
迄今为止,黄沙群岛和长沙群岛中的六座岛屿仍被中国占领,但2011年越南总理阮晋勇在国民议会前已明确越南在黄沙群岛与长沙群岛的权利。随后的各种声明都不断强调了这一立场。此外,国民议会已正式承认越南尚未完成恢复完整领土的历史责任。
越南人民及历届越南政府在领土问题上的立场将不会不变。习近平 - 范长龙之妄想与不明形势的野心肯定会遭到挫败!
3.无论隶属何派, 越南人民对为抵抗外来势力侵略、维护祖国完整领土而斗争与牺牲的历代军队表示诚挚的感谢与永久的怀念!
4.内部团结是加强国防军队力量、抵抗外侵的必要条件。越南人民在不同层面热切关注和坚定支持国家政策、经济体制、卫生体制、国民教育、国防、司法等方面的改革与透明化进程。尤其是军队改革,革除特殊利益团体,重组内部体制,清理腐败。其重中之重乃是放弃不切实际的幻想,摒弃落后的意识形态,修改宪法第四条,恢复国民议会的权利,加强民族团结,实现民主,赶上时代。
我们在此大声呼吁:请以国为先,大局为重,搁置历史遗留,求同存异!
我们恳请全体群众、民间社会团体,国家机关成员以及生活在越南境外的越南同胞,支持这份正义的声明。
我们还呼吁世界各国支持我们进行按照国际法维护越南主权、保护环境、保护自然资源、保障南中国海海域及空域自由航行的正义斗争。
Deutsche Version
ERKLÄRUNG VON BÜRGERN UND ZIVILGESELLSCHAFTLICHEN
ORGANISATIONEN VIETNAMS ÜBER DIE HOHEITLICHE
SOUVERÄNITÄT ÜBER VIETNAMESISCHE GEWÄSSER UND INSELN
Ho-Chi-Minh-Stadt, den 27. Juni 2017
Anläßlich eines Staatsbesuchs in Vietnam hat ein chinesischer Staatsmann, General Fan Changlong, zum ersten Mal gegenüber der vietnamesischen Staatsführung offiziell erklärt, dass “das Ostmeer seit Altertum zu China” gehöre. Das war eine Aussage, die nicht einmal der chinesische Präsident Xi Jinping in Vietnam auszusprechen wagte, sondern erst im Anschluss in Singapur, nachdem er Vietnam verlassen hatte.
Als Vertreter der chinesischen Expansionspolitik machte
Fan Changlong einen neuen Schritt in Richtung Provokation und Drohung gegen die
vietnamesische Souveränität. Gleichzeitig greift China an verschiedenen Orten im
Meeres- und im Landesgebiet Vietnams an.
Das fried- und Freundschaft liebende, kriegsleidgeprüfte
Volk Vietnams ist furchtlos und entschlossen, auf diese Expansion der chinesischen
Machthaber zu antworten, was sich in der tausendjährigen Geschichte des
Widerstands gegen die chinesische Aggression mehrfach bewährt hat.
Wir, die Bürger und zivilgesellschaftlichen Organisationen
Vietnams, erklären hiermit feierlich:
1. Wir protestieren und verurteilen die gegenwärtigen
aggressiven Aktivitäten der Pekinger Machthaber zu Wasser und zu Lande gegen Vietnam. Ein Antwort unsererseits
zur Verteidigung des Landes wird unter allen Umständen erfolgen.
2. Zu jeder Zeit und über alle Differenzen hinweg steht
das vietnamesische Volk einträchtig hinter allen Regierungen Vietnams im Kampf
um die nationale Souveränität und gegen die Aggressoren.
- Auf der Friedenskonferenz von San Francisco im Jahr 1951 bekräftigte
Trần Văn Hữu, Ministerpräsident der Republik Vietnam, die Position, dass die
Paracel- und Spratly-Inselgruppe zu Vietnam gehören, und fand
Anerkennung von der Konferenz.
- Die Republik Vietnam führte 1974 einen
unbeugsamen, jedoch erfolglosen Kampf gegen die Annexion der Paracel-Inseln durch
China.
- Nach der Wiedervereinigung hat die Sozialistische
Republik Vietnam unter Generalsekretär Lê
Duẩn im Jahr 1979 einen heldenhaften Verteidigungskrieg gegen den chinesischen
Überfall auf 6 nördliche Provinzen geführt. Obwohl die 6 Paracel- und
Spratly-Inseln noch immer von China annektiert sind, bekräftigte
Premierminister Nguyễn Tấn Dũng im Jahr 2011 vor der Nationalversammlung die
Hoheitsrechte Vietnams über die Paracel- und Spratly-Inselgruppe. Diesen
Standpunkt bestätigt später die vietnamesische Regierung in verschiedenen
Erklärungen. Auch die Nationalversammlung gibt offiziell zu, dass Vietnam immer noch unter seiner
geschichtlichen Schuldigkeit zur Wiederherstellung der territorialen Integrität
leidet.
Der Standpunkt des vietnamesischen Volkes und die andauernd
konsequente Position respektiver Regierungen ist von historischer Konstanz. Der größenwahnsinnigen,
zeitentrückten Begierde von den Expansionisten Xi Jinping, Fan Changlong und
ihren Lakaien wird eine jämmerliche Abfuhr widerfahren.
3. Stets anerkennt das vietnamesische Volk in Dankbarkeit
die Aufopferung der Armeen unterschiedlicher Zeiten, die das Vaterland gegen
die Aggressoren gleich woher und unter welcher Flagge verteidigen.
4. Um die Verteidigungskräfte des Landes gegen
Aggressionen zu verstärken, ist eine innenpolitische Konsolidierung
unaufschiebbar. Alle vietnamesischen Bevölkerungsschichten beobachten gespannt
und unterstützen die Bemühungen um die Säuberung des Staatsapparates und die
Reformen in allen Bereichen wie Wirtschaft, Gesundheits- und Bildungswesen,
Landesverteidigung, Rechtssystem, insbesondere die Neugestaltung der Armee, die
Beseitigung irregulärer Gruppeninteressen, die Reorganisation des
bürokratischen Verwaltungssystems, die Bekämpfung der Korruption. Vor allem
geht es um die Überwindung der rückständigen, illusorischen Ideologie, die
Überholung des Artikels 4 der Verfassung, um dadurch die Rolle der
Nationalversammlung zu rektifizieren, die nationale Eintracht zu steigern und
die Demokratie mit der zeitgemäßen Entwicklung Schritt halten zu lassen.
Vaterland über alles - in diesem Sinne lassen wir die
Vergangenheit beiseite und akzeptieren die Differenzen.
Wir appellieren an alle Bevölkerungsschichten,
zivilgesellschaftlichen Organisationen, Personen der Staatsorgane und Auslandsvietnamesen,
dass Sie diese Erklärungen unterstützen.
Wir appellieren an die Menschen aller Länder, dass Sie
unseren gerechten Kampf für die Verteidigung der nationalen Souveränität im
Einklang mit dem Völkerrecht, für den Schutz der Ressourcen aus dem Meer, für
die Sicherung freier See- und Luftwege durch das Ostmeer unterstützen.
Unterstützen Sie diese Erklärungen mit Ihrer Unterschrift
per E-Mail anbiendongtuyenbo@gmail.com
DANH SÁCH KÝ TÊN
I. Hội đoàn tổ chức xã hội dân sự
Đợt 1
1.
Ban
Vận động thành lập Văn đoàn Độc lập Việt Nam do nhà văn Nguyên Ngọc đại diện
2.
Câu
lạc bộ Lê Hiếu Đằng do ông Lê Thân, Chủ nhiệm Câu lạc bộ, đại diện
3.
Diễn
đàn Xã hội Dân sự do TS Nguyễn Quang A đại diện
4.
Người
Bảo vệ Nhân quyền (Defend the Defenders) do ông Vũ Quốc Ngữ đại diện
5.
Mạng
lưới Các Tổ chức Xã hội Dân sự Độc lập (Vietnam Independent Civil Society
Organizations - VICSON) do ông Vũ Quốc Ngữ đại diện
6.
Câu
lạc bộ Phan Tây Hồ do TS Hà Sĩ Phu và cán bộ cộng sản Tiền khởi
nghĩa Đoàn Nhật Hồng đại diện
7.
Diễn
đàn Bauxite Việt Nam do GS Phạm Xuân Yêm và GS Nguyễn Huệ
Chi đại diện
Đợt 2
8.
Tổ
chức Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam tại Úc, Hoa Kỳ và Canada do ông Trần Đông, Tổng Giám Đốc &
Sáng lập viên đại diện
9.
Ban
Hỗ Trợ Nạn Nhân Ô Nhiễm Biển Môi Trường Biển Giáo Phận Vinh. Đại diện: Linh Mục
Giuse Phan Sĩ Phương, Trưởng ban
10.
Ban
Công Lý và Hòa Bình Giáo Phận Vinh. Đại diện: Linh mục Ant Nguyễn Văn Đính,
Trưởng ban
II. Cá nhân
Đợt 1
1.
Nguyễn
Quang A, TSKH, nguyên Viện trưởng Viện IDS, Hà Nội
2.
Hồ
An, nhà báo, Sài Gòn
3.
Vũ
Hồng Ánh, nghệ sĩ, Sài Gòn
4.
Lại
Nguyên Ân, nhà nghiên cứu độc lập, Hà Nội
5.
Nguyễn
Trọng Bách, kỹ sư động lực, Nam Định
6.
Trần
Văn Bang, kỹ sư, cựu chiến binh chống Trung Quốc xâm lược, Sài Gòn
7.
Nguyễn
Nguyên Bình, Nhà văn, Hà Nội
8.
Huỳnh
Ngọc Chênh, nhà báo, thành viên Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
9.
Nguyễn
Huệ Chi, GS, hưu trí, Hà Nội
10.
Nguyễn
Kim Chi, nghệ sĩ, thành viên Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
11.
Tống
Văn Công, nguyên Tổng Biên tập báo Lao
Động, Hoa Kỳ
12.
Ngô
Thị Kim Cúc, nhà văn, nhà báo, Sài Gòn
13.
Tiêu
Dao Bảo Cự, nhà văn tự do, Đà Lạt
14.
Nguyễn
Trung Dân, nhà báo, Sài Gòn
15.
Nguyễn
Đắc Diên, bác sĩ, Sài Gòn
16.
Nguyễn
Xuân Diện, TS, Hà Nội
17.
Hoàng
Dũng, PGS TS, Sài Gòn
18.
Nguyễn
Duy, nhà thơ, Sài Gòn
19.
Lê
Công Định, luật sư, thành viên Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
20.
Trần
Tiến Đức, nhà báo độc lập, đạo diễn truyền hình và phim tài liệu, Hà Nội
21.
Phạm Nam Hải, Hà Nội
22.
Nguyễn
Trần Hải, cựu sĩ quan Hải quân Nhân dân Việt Nam, Hải Phòng
23.
Chu
Hảo, Viện trưởng Viện Phan Châu Trinh, Hội An, Quảng Nam
24.
Đặng
Thị Hảo, TS, hưu trí, Hà Nội
25.
Nguyễn
Thị Thanh Hằng, dược sĩ, Pháp
26.
Vũ
Thư Hiên, nhà văn, Pháp
27.
Bùi
Hiền, nhà thơ, Canada
28.
Ngô
Kim Hoa (Sương Quỳnh), nhà báo tự do, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
29.
Đoàn
Nhật Hồng, nguyên Giám đốc Sở Giáo dục Lâm Đồng, thành viên Câu lạc bộ Phan Tây
Hồ, Đà Lạt
30.
Lại
Thị Ánh Hồng, nghệ sĩ, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
31.
Phaolô
Nguyễn Thái Hợp, Giám mục Giáo phận Vinh
32.
Nguyễn
Đăng Hưng, GS Danh dự Đại học Liège, Bỉ, cư ngụ tại Sài Gòn
33.
Hoàng
Hưng, nhà thơ, dịch giả, Sài Gòn
34.
Đoàn
Thị Thu Hương, nội trợ, Sài Gòn
35.
Lê
Phú Khải, nhà báo, thành viên Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
36.
Lê
Xuân Khoa, GS, Hoa Kỳ
37.
Mai
Thái Lĩnh, nhà nghiên cứu, thành viên Câu lạc bộ Phan Tây Hồ, Đà Lạt
38.
Lê
Khánh Luận, tiến sĩ toán, nhà thơ, nguyên GV ĐH KT Tp.HCM
39.
Phan
Đắc Lữ, nhà thơ, thành viên Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
40.
André
Menras - Hồ Cương Quyết, nhà giáo Pháp-Việt, Pháp
41.
Gioan
Baotixita Huỳnh Công Minh, linh mục Giáo phận Sài Gòn
42.
Kha
Lương Ngãi, nguyên Phó Tổng Biên tập báo Sài Gòn giải phóng, thành viên Câu lạc
bộ Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
43.
Nguyên
Ngọc, nhà văn, Hội An
44.
Nguyễn Đình Nguyên, TS Y khoa, Australia
45.
Nguyễn Quang Nhàn, cán bộ hưu trí Đà Lạt, Câu lạc bộ Phan Tây Hồ, Đà Lạt
46.
Ý Nhi, nhà thơ, Sài Gòn
47.
Hồ Ngọc Nhuận, nhà báo, dân biểu đối lập thời VNCH, Phó Chủ tịch Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam của thành phố Hồ Chí Minh, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
48.
Phan Hoàng Oanh, giảng viên đại học, Sài Gòn
49.
Bùi Oanh, giáo viên, đã nghỉ hưu, Sài Gòn
50.
Hà Sĩ Phu, TS, thành viên Câu lạc bộ Phan Tây Hồ, Đà Lạt
51.
Huỳnh Sơn Phước, nhà báo, Hội An
52.
Tô Lê Sơn, kỹ sư, thành viên Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
53.
Trần Ngọc Sơn, kỹ sư, Pháp
54.
Võ Văn Tạo, nhà báo, Nha Trang
55.
Nguyễn Quốc Thái, nhà báo, Sài Gòn
56.
Phạm Thành, nhà báo, nhà văn, Hà Nội
57.
Trần Minh Thảo, viết văn, thành viên Câu lạc bộ Phan Tây Hồ, Bảo Lộc, Lâm
Đồng
58.
Lê Thân, cựu tù chính trị Côn Đảo, Chủ nhiệm Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, Sài
Gòn
59.
Đào Tiến Thi, nhà nghiên cứu văn học và ngôn ngữ, nguyên Ủy viên Ban Chấp
hành Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội
60.
Võ Văn Thôn, nguyên Giám đốc Sở Tư pháp TP HCM, thành viên Câu lạc bộ Lê
Hiếu Đằng, Sài Gòn
61.
Đào Công Tiến, nguyên Hiệu trưởng trường Đại học Kinh tế TpHCM
62.
Đoàn Văn Tiết, nhà giáo, Sài Gòn
63.
Mạc Văn Trang, tiến sĩ tâm lý học, Hà Nội
64.
Nguyễn Thị Khánh Trâm, hưu trí, Sài Gòn
65.
David
Tran, GS, Hoa Kỳ
66.
Phạm
Đình Trọng, nhà văn, Sài Gòn
67.
Phạm
Nguyên Trường, dịch giả, Vũng Tàu
68.
Trần
Ngọc Tuấn, nhà văn, nhà báo, Praha, Czech
69.
Hà
Quang Vinh, hưu trí, Sài Gòn
70.
Nguyễn
Ngọc Xuân, làm vườn, đã nghỉ hưu, Bà Rịa - Vũng Tàu
71.
Phạm Xuân
Yêm, GS, hưu trí, Paris
Đợt 2
72.
Nguyễn
Đình Đầu, nhà nghiên cứu, Sài Gòn.
73.
Hạ
Đình Nguyên, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
74.
Cao
Lập, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
75.
Lê
Anh Hùng, nhà báo tự do, Hà Nội
76.
Đoàn
Đức Phương, giáo viên, Sài Gòn
77.
Nguyễn
Đình Ấm, nhà báo, Hà Nội
78.
Nguyễn
Thu Giang, hưu trí, nguyên Phó Giám đốc Sở Tư pháp TP Hồ Chí Minh
79.
Phạm
Hữu Tình, luật sư, Bình Dương.
80.
Khổng
Hy Thiêm, kỹ sư Điện, Khánh Hòa.
81.
Bùi
Thị Minh Hằng, cựu tù nhân lương tâm, Vũng Tàu
82.
Phạm
Khiêm Ích, nghiên cứu khoa học, Hà Nội
83.
Lê
Tuấn Huy, TS, TPHCM
84.
Nguyễn
Thế Hùng, GSTS, Phó Chủ tịch Hội Cơ học Thủy khí Việt Nam
85.
Nguyễn
Văn Đức, lao động tự do, Sài Gòn
86.
Nguyễn
Ngọc Dũng, công dân Việt Nam, TPHCM
87.
Đinh
An, kỹ sư Chế tạo máy, Hà Nội
88.
Nguyễn
Văn Tiên, kỹ sư Tư vấn Môi trường, Bình Dương
89.
Vinh
Anh, cựu chiến binh, Hà Nội
90.
Mã
Lam, Nhà thơ, Sài Gòn
91.
Nguyễn
Lệ Uyên, nhà văn, Sài Gòn
92.
Phạm
Gia Minh, TS Kinh tế, Hà Nội
93.
Nguyễn
Thượng Long, giáo viên hưu trí, Hà Nội
94.
Bùi
Minh Quốc, nhà báo, Đà Lạt
95.
Hồ
Quang Huy, kỹ sư đường sắt CTCP đường sắt Phú Khánh, TP Nha Trang
96.
Nguyễn
Văn Lượm, nghề nghiệp tự do, TP Nha Trang
97.
Chu
Sơn, công dân Việt Nam, TPHCM
98.
Nguyễn
Thị Kim Thoa, công dân Việt Nam, TPHCM
99.
Nguyễn
Văn Sơn (Son Nguyen), về hưu, Hoa Kỳ
100.
Huỳnh
Nhật Hải, hưu trí, Đà Lạt
101.
Huỳnh
Nhật Tấn, hưu trí, Đà Lạt
102.
Nguyễn Đăng
Quang, Đại tá, nguyên cán bộ Bộ Công an, Hà Nội
103.
Trần
Thiện Kế, dược sĩ, Hà Nội
104.
Hoàng
Ngọc Đính, cựu sĩ quan QLVNCH, Đà Lạt
105.
Đào Minh Châu, Hà Nội
106.
Nguyễn Lạc, doanh nhân, Hội Sinh viên Sài Gòn Gia Định
107.
Nguyễn Tiến Đức, nghỉ hưu tại TPHCM
108.
Nguyễn Trọng Cương, Học viện Nông nghiệp Việt Nam
109.
Trần Thanh Vân, kiến trúc sư, Hà Nội
110.
Đồng Quang Vinh, hưu trí, Nha Trang, Khánh Hòa
111.
Phạm Minh Đức, kỹ sư Cơ khí, Hà Nội
112.
Nguyễn Đào Trường, hưu trí, Hải Dương
113.
Nguyễn Văn Lịch, hưu trí, Hà Nội
114.
Hoàng Quý Thân, PGSTS, hưu trí, Hà Nội
115.
Phạm Văn Chung, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội
116.
Trần Viết Tuyên, kiến trúc sư, nghỉ hưu, Hamburg, CHLB Đức
117.
Trần Thế Tuấn, Đại học Sư phạm, Đại học Quốc gia Việt Nam, Hà Nội
118.
Ngô Kim Dung, bác sĩ, Pháp
119.
Phan Quốc Tuyên, kỹ sư Tin học, Genève, Thụy Sĩ
120.
Phạm Vương Ánh, kỹ sư Kinh tế, cựu sĩ quan QĐNDVN, Nghệ An
121.
Doãn Mạnh Dũng, kỹ sư, Phó Chủ tịch, Tổng thư ký Hội Khoa học Kỹ thuật và
Kinh tế Biển TPHCM
122.
Lê Quỳnh, nhà báo, Sài Gòn
123.
Nguyễn Huy Canh, giáo viên hưu trí, Hải Phòng
124.
Hoàng Thị Như Hoa, bộ đội xuất ngũ, Hà Nội
125.
Tô Oanh, giáo viên đã nghỉ hưu, TP Bắc Giang
126.
Nguyễn Văn Hồng, giáo viên đã nghỉ hưu, Bắc Ninh
127.
Hà Văn Thùy, nhà văn, TPHCM
128.
Lê Văn Ngọ, cán bộ hưu trí tại Nha Trang
129.
Uông Đình Đức, hưu trí, TPHCM
130.
Phan Châu Danh, thạc sĩ Quản lý Kinh doanh & Quản lý Chất lượng, kinh
doanh tự do tại Bỉ
131.
Hoàng Xuân Sơn, nhà thơ, Canada
132.
Lý Đăng Thạnh, Người chép Sử, Sài Gòn
133.
Trần Minh Quốc, nguyên giáo sư chuyên khoa Sử-Địa trước năm 1975, Sài
Gòn
134.
Trương Thế Kỷ, München, CHLB Đức
135.
Cao
Xuân Lý, nhà văn, Australia
136.
Hoàng Thanh Linh, thạc sĩ, Sài Gòn
137.
Nguyễn Trọng Hoàng, bác
sĩ, Pháp
138.
Trần Văn Hoàng, Canada
139.
Nguyễn Văn Nghi, TS, Hà Nội
140.
Lê Mai Đậu, kỹ sư, Hà Nội
141.
Phan Văn Quý, kiến trúc sư, Sài Gòn
142.
Nguyễn Diễm Quyên, kinh doanh, TPHCM
143.
Đỗ Quốc Minh, Thủ Đức, Sài Gòn
144.
Nguyễn Thị Xuyến, Bình Dương
145.
Ngô Trường Hải, Buôn Ma Thuột
146.
Huỳnh Thanh Thương, công dân Việt Nam, Sài Gòn
147.
Trần Đình Sử, GSTS, Hà Nội
148.
Nguyễn Phúc Thành, dịch giả, Sài Gòn
149.
Nguyễn Đức Quỳ, cựu giáo chức, Hà Nội
150.
Phùng Hoài Ngọc, thạc sĩ, An Giang
151.
Đặng Đăng Phước, giáo viên, Đăk Lăk
152.
Lê Phước Nhất Sang, kế toán, Sài Gòn
153.
Trần Đình Tuấn, nghiên cứu văn hoá dân gian độc lập,
Hà Nội
154.
Hà Thúc Huy, PGSTS Hóa học, Sài Gòn
155.
Vũ Ngọc Lân, kỹ sư Luyện kim, Hà Nội
156.
Trần Quốc Túy, kỹ sư Hóa, đã nghỉ hưu, Hà Nội.
157.
Anh N Tran, giáo chức, hưu trí, Hoa Kỳ
158.
Bùi Hồng Mạnh, biên dịch tự do, cử nhân Hóa học, cựu
sĩ quan “79”, QĐNDVN, Munich, CHLB Đức
159.
Lê Hải, nghệ sĩ nhiếp ảnh, Đà Nẵng
160.
Nguyễn Chính, luật gia, nhà báo, Nha Trang
161.
Lê Thăng Long, kỹ sư, doanh nhân, Sài Gòn
162.
Tống Hồ Huấn, Mục sư nhà thờ, Auckland, New Zealand
163.
Nguyễn Thu Hoà, kế toán viên, Auckland, New Zealand
164.
Nguyễn Rose Hồng, Truyền đạo Hội Thánh Elim, Auckland, New Zealand
165.
Nguyễn Khánh Việt, cán bộ hưu trí, Hà Nội
166.
Trần Hữu Khánh, hưu trí, TPHCM
167.
Jane Nguyen, Hoa Kỳ
168.
Hồ Hữu Nghị, kỹ sư dự án, TPHCM
169.
Hồ Sĩ Phú, kỹ sư cơ khí, Quy Nhơn
170.
Hồ Trọng Đễ, giáo viên nghỉ hưu, TPHCM
171.
Trần Đình Sơn, giảng viên Toán, Anh Quốc
172.
Uông-Nguyễn Thị Xuân Hương, Thụy Sĩ
173.
Tư Đồ Tuệ, Canada
174.
Trần Đông, Tổng Giám Đốc & Sáng lập viên Tổ chức
Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam tại Úc, Hoa Kỳ
và Canada
175.
Bùi Tiến An, cựu tù Côn Đảo, thành viên CLB Lê Hiếu
Đằng, Sài Gòn
176.
Thiều Thị Tân, cựu tù Côn Đảo, thành viên CLB Lê
Hiếu Đằng, Sài Gòn
177.
Nguyễn Thúy Hạnh, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, Sài
Gòn
178.
Ant. Nguyễn Thanh Tịnh, Linh mục quản xứ Cồn
Sẻ, Giáo phận Vinh.
179.
Giuse Phan Sĩ Phương, Linh mục quản hạt Cửa Lò, Giáo
phận Vinh
180.
Giuse Nguyễn Công Bắc, Linh mục quản hạt Cầu Rầm,
Giáo phận Vinh
181.
Ant. Nguyễn Văn Đính, Linh mục quản hạt Thuận Nghĩa,
Giáo phận Vinh
182.
GB. Bùi Khiêm Cường, Linh mục quản xứ Đông Sơn, Giáo
phận Vinh
183.
GB. Nguyễn Đình Thục, Linh mục quản xứ Song Ngọc,
Giáo phận Vinh
Đợt 3
184.
Đặng Hữu Nam, Linh mục Giáo
phận Vinh
185.
Paul Nguyễn Minh Sáng, Linh mục Giáo xứ Phù Kinh,
Giáo phận Vinh
186.
Fx. Nguyễn Hồng Ân, Linh mục Giáo phận Vinh
187.
Huỳnh Kim Báu, nguyên Tổng Thư ký Hội Trí thức yêu
nước TP HCM, Chủ tịch danh dự CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
188.
Lê Công Giàu, hưu trí, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng,
Sài Gòn
189.
Huỳnh Tấn Mẫm, bác sĩ, cựu Chủ tịch Tổng hội Sinh
viên Sài Gòn trước năm 75, cựu ủy viên MTTQ TP HCM, cựu Tổng Biên tập báo
Thanh Niên, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
190.
Liệt Kha, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
191.
Nguyễn Phục Hưng, kỹ sư Điện, TPHCM
192.
Vũ Giang, Hoa Kỳ
193.
Nghiêm Hồng Sơn, nghiên cứu viên cao cấp, Đại học
Công nghệ Queensland, Australia
194.
Trương Chí Tâm, cựu chiến binh chiến trường
Campuchia, cử nhân y khoa, Sài Gòn
195.
Lê Thị Lệ Hằng, nội trợ, Sài Gòn
196.
Triệu Sang, thương phế binh VNCH, Sóc Trăng
197.
Nguyễn Ngọc Tâm, kinh doanh tự do, Nghi Lộc, Nghệ An
198.
Lê Thị Kiều Oanh, Sài Gòn
199.
Nguyễn Văn Trợ, TPHCM
200.
Hồ Sỹ Hải, cựu chiến binh, kỹ sư, nghỉ hưu, Hà Nội
201.
Đaminh Lê Thanh Trưởng, Linh mục Giáo phận Xuân Lộc
202.
Phê rô Nguyễn Đức Manh, sinh viên Đại học Huế, Quảng
Bình
203.
Phê rô Nguyễn Đạo, sinh viên Đại học Đà Nẵng, Quảng
Bình
204.
Nguyễn Văn Vinh, hưu trí, Hà Nội
205.
Trần Kim Thập, giáo chức, Australia
206.
Hanh.M.Tran, Australia
207.
Chi To, Australia
208.
May Dang, Australia
209.
Thao Nguyen, Australia
210.
Hoa Nguyen, Australia
211.
Jane Pham, Australia
212.
Jasmine Tran, Pháp
213.
Tallys Tran, Pháp
214.
Trần Quốc Hùng, TPHCM
215.
Nguyễn Ngọc Tâm, Giáo xứ Trang Cảnh, hạt Cửa Lò,
Giáo phận Vinh
216.
Hoàng Văn Khẩn, TS Sinh Hoá học, Thụy Sĩ
217.
Phạm Ngọc Kỳ, TS, kiến trúc sư, Berlin, CHLB Đức
218.
Trần Văn Tân, kỹ sư, Berlin, CHLB Đức
219.
Đặng Quốc Tuấn, lao động tự do, Hà Nội
220.
Đinh Đức Long, TS, bác sĩ, Sài Gòn
221.
Chu Quốc Khánh, kỹ sư Điện tử, cử nhân Kinh tế, Hà
Nội
222.
Hoàng Minh Cảnh, Quảng Bình
223.
Nguyễn Duy Oai, giáo dân giáo xứ Trang Nứa, Giáo
phận Vinh
224.
Nguyễn Đăng Cao Đại, Th.sĩ Quản lý Dự án, Sài
Gòn
225.
Võ Trường Phú, kỹ sư Xây dựng, Hà Tĩnh
226.
Nguyễn Tiến Đạt, hỗ trợ kỹ thuật FPT, Sài Gòn
227.
Vinh Nguyễn, Hoa Kỳ
228.
Kimdzung Nguyễn, Hoa Kỳ
229.
Trần Xuân Huyền, công dân tự do, Anh Quốc
230.
Nguyễn Peng, công tác xã hội, Sài Gòn
231.
Quan Vinh, chuyên viên tin học, Italy
232.
Lê Đình Hồng, kế toán, Canada
233.
Lê Thị Nhân, nội trợ, Canada
234.
Phan Văn Song, cựu giáo viên, Australia
235.
Phạm Anh Tuấn, kỹ sư, Australia
236.
Tri Nguyen, Australia
237.
Kim Anh Hoang, Australia
238.
Nguyễn Sỹ Kiệt, TS Khoa học Kỹ thuật, cán bộ hưu
trí, T HCM
239.
Nguyễn Văn Ly (Tư Kết), nguyên thư ký Bí thư Thành
ủy TPHCM Mai Chí Thọ, hưu trí, Sài Gòn
240.
Lê Kim-Song, TS, Australia
241.
Nguyễn Thị Hạnh, hưu trí, TpHCM.
242.
Lê Văn Oanh, kỹ sư Xây dựng, Hà Nội
243.
Vu Dinh Bon, TS, kỹ sư Công chánh, Hoa Kỳ
244.
Đặng Viết Trường, nhà báo, Hà Nội
245.
Phạm Ngọc Thái, nhà thơ, Hà Nội
246.
Trần Hưng Thịnh, kỹ sư, đã nghỉ hưu, Hà Nội
247.
Vũ Trọng Khải, chuyên gia Kinh tế Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn, TPHCM
248.
Paul Trần Minh Nhật, cựu tù nhân lương tâm, Đà Lạt,
Lâm Đồng
Đợt 4
249.
Hoàng Tụy, Giáo sư, nguyên Viện trưởng Viện Toán, Hà
Nội
250.
Lý Thành Đạt, hưu trí, Sài Gòn
251.
Nguyễn Lê Thu Mỹ, hưu trí, Sài Gòn
252.
Đặng Bích Phượng, hưu trí, Hà Nội
253.
Nghiêm Việt Anh, kỹ sư Xây dựng, hưu trí, Hà Nội
254.
Vinh Dang, Texas, Hoa Kỳ
255.
Hồ Thái Hùng, Quảng Bình
256.
Lê Nam Cảnh, Hà
Tĩnh
257.
Trịnh Bá Phương, dân oan mất đất, Dương Nội, Hà Nội
258.
Thích Vĩnh Phước, Phó Tổng vụ trưởng tổng vụ cư sĩ
Tăng đoàn Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, chùa Phước Bửu, huyện Xuyên
Mộc, Bà Rịa Vũng Tàu
259.
Trần Thị Thu Hoài, TPHCM
260.
Vinh Lê, chuyên viên Công nghệ Thông tin, Canada
261.
Phạm Văn Nam, cựu chiến binh, Hà Nội
262.
Trần Kim Thanh, hưu trí, Hà Nội
263.
Nguyễn Hy Văn, nhân viên văn phòng, Sài Gòn
264.
Trần Thanh Bình, kỹ sư, Italy
265.
Ngụy Hữu Tâm, dịch giả, Hà Nội
266.
Trần Thị Thảo, giáo viên đã nghỉ hưu, Hà Nội
267.
Vũ Mạnh Hùng, Thanh Xuân, Hà Nội
268.
Đỗ Thịnh, nghiên cứu viên Viện Hàn lâm Khoa học Xã
hội Việt Nam, hưu trí, Hà
Nội
269.
Nguyễn Hữu Tuyến, kỹ sư hưu trí, Sài Gòn
270.
Nguyễn Huy Chương, lính viễn thám quân lực VNCH, Hoa
Kỳ
271.
Bùi Trọng Tuấn, dược sĩ cấp II, hưu trí, Hải Dương
272.
Nguyễn Tiến Lộc, TS Kinh tế, nhà văn, Hội Nhà văn Hà
Nội
273.
Lê Xuân Thiêm, kỹ sư Xây dựng, Sài Gòn
274.
Vũ Tuấn, TS Điện tử, Stuttgart, CHLB Đức
275.
Trần Văn Khoản, nghề nghiệp tự do, Bà Rịa Vũng Tàu
276.
Trần Thoại Nguyên, thi sĩ, Sài Gòn
277.
Nguyễn Văn Muôn, nguyên phóng viên
Đài Tiếng nói Việt Nam II, Sài Gòn
278.
Trần Rạng, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
Chúng tôi ngừng nhận chữ ký từ 20 giờ 8.7.2017. Cảm ơn các bạn đã đồng
hành cùng chúng tôi.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.