Nữ nghệ sĩ Kim Tuyến |
(Tuấn
Khanh) Tình cờ gặp được chi Kim Tuyến, một trong nghệ sĩ tài
danh của giới biểu diễn miền Nam trước 1975. Dù ở trong các tuồng
diễn của gánh hát Kim Chung hay Dạ Lý Hương, thì cái tên Kim Tuyến luôn đứng
cùng với Hùng Cường, Tấn Tài, Thanh Hải… Khán giả của thập niên 60 luôn đánh
giá tài năng của chị không khác gì Ngọc Giàu, Bích Sơn, Phượng Liên, Thanh
Thanh Hoa… Giọng hát và lối trình diễn của chị là sự thu hút đặc biệt
trên sân khấu của Sài Gòn. Nhưng có lẽ cũng vì vậy mà chị gặp không ít khó khăn
sau tháng 4-1975 bởi chọn lựa của mình.
Tháng 7/2016, chị Kim Tuyến có kể về
cuộc gặp giữa chị và nghệ sĩ Kim Cương. Giữa trùng phùng đó, người nghệ sĩ của
Little Saigon đã bất ngờ bật ra câu hỏi với nghệ sĩ Kim Cương rằng vì sao bà
lại là một cán chính nằm vùng.
Câu hỏi đó, cũng bật tung cánh cửa quá
khứ, mở ra những điều âm ỉ chưa ai nói hết. Lịch sử ghi lại vô số những dữ kiện
lớn lao, nhưng đôi khi vẫn thiếu những câu chuyện đời mà khiến ai nấy đều phải
trầm ngâm suy nghĩ. Ngày chiến tranh ấy xa rồi, nhưng có những vết thương không
bao giờ có thể lành.
Về nghệ sĩ Kim Cương, thật mới mẻ khi
nghe kể lại qua lời của một đồng nghiệp – mà hơn nữa là mặt đối mặt chứ không
phải là chuyện thêu dệt. Trong chuyện kể ấy, nghệ sĩ Kim Cương đã ngại ngùng ra
đi, để tránh phải trả lời nghệ sĩ Kim Tuyến. Cuộc đời, quả thật khó ngờ hôm nay
và mai sau. Cũng ít ai biết, trong những tháng ngày của chế độ mới, nhiều người
kể rằng nếu không có ông Võ Văn Kiệt lên tiếng bênh vực thì bà Kim Cương cũng
đã gặp nhiều búa rìu từ các cán bộ bảo thủ thâm căn – coi bà Kim Cương cũng
cùng một loại “văn hóa đồi trụy”, không nên sử dụng trong chế độ XHCN.
Cám ơn chị Kim Tuyến, một nghệ sĩ tài
danh và là một người thẳng thắn kể lại mọi thứ trong bài phỏng vấn dưới đây.
Những gì chị nói ra, sẽ là phần tham khảo sống động nhất cho thế hệ mai sau về
sân khấu, con người và cuộc đời của Sài Gòn trong ký ức của những ai yêu thương
nơi chốn ấy.
Tôi giữ lại câu chuyện này với sự
tôn trọng người kể, với tư cách hậu bối, và cũng sẳn lòng dành thời gian với
với những ý kiến cải chính khác gửi đến, trong tinh thần sẳn
sàng rộng đường dư luận. Trân trọng.
Thật bất ngờ khi gặp lại chị ở Mỹ, đặc biệt là qua trường hợp chị nói
rất thẳng thắn với nghệ sĩ Kim Cương, về những hoạt động không có tính cách văn
nghệ của bà. Có vẻ như còn rất nhiều thứ về cuộc đời mình mà chị chưa có dịp
chia sẻ với khán giả. Nếu không bất tiện, chị có thể cho biết sau ngày
30-4-1975, cột mốc của đời chị đã như thế nào?
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, theo lời
kêu gọi của Đài Phát Thanh Sài Gòn (quân cán chính phải đến trình diện), tôi
đến sở làm là Tiểu Đoàn 50 Chiến Tranh Chính Trị trình diện. Đến nơi tôi thấy
một đống rác khổng lồ ngay lối cổng ra vào và đầy cả trong sân. Bỗng có người
nói: “Không phải ở đây mà phải trình diện
ở Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị ở đường Thống Nhất”.
Đến Tổng Cục CTCT, anh Vân Sơn (ban
AVT) giúp tôi lấy tờ đơn khai lý lịch từ một cán bộ cộng sản đưa cho tôi. Tôi
đang điền vào thì một cán bộ khác bước ra nói: “Các ban nhạc trong Nam này chỉ có vài nhạc công, ngoài Bắc chúng tôi
có cả trăm nhạc công ấy”. Tôi hơi bực nói : “Nhưng sao ca sĩ các anh hát giống tiếng Tàu quá, chỉ nghe chí chí chéo
chéo không hà, chúng tôi không hiểu gì cả”.
Nhìn vào tờ khai lý lịch, tôi nhanh trí
điền vào hai chữ “tài xế” ở phần nghề
nghiệp. Xong mọi thủ tục, anh Vân Sơn đưa tôi đến trước cổng Ban Văn Nghệ Hoa
Tình Thương và Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung Ương. Anh Vân Sơn chào từ giả với gương
mặt thật buồn. Về sau tôi được tin anh Vân Sơn đã nhảy xuống sông Thị Nghè tự
tử vì bất mãn với chế độ.
Sau đó theo lời kêu gọi của chị Kim
Cương, tôi đến họp tại Hội Nghệ Sĩ. Rất đông các cô chú và anh chị nghệ sĩ tân
cổ tụ tập bên hông trụ sở và phía sân sau. Khi thấy tôi và nghệ sĩ Tùng Lâm
ngồi trò chuyện, chị Kim Cương ngồi xuống bên cạnh tôi. Tôi nói “Chị ơi em buồn quá”. Chị Kim
Cương kéo đầu tôi ngả vào vai chị, một tay vuốt tóc vỗ về: “Đừng buồn em, chị em mình rồi sẽ được giải
phóng ra khỏi bốn bức tường”. Tôi sững sờ nhìn chú Tùng Lâm. Chị Kim Cương
nói lớn “Mọi người vào trong, đến giờ
họp. Chị nắm tay tôi, kéo tôi theo chị vào phòng họp. Chị ngồi vào đầu bàn
chủ tọa. Chị dõng dạc tuyên bố: “Ngày xưa
bọn Thiệu Kỳ bán nước còn hiện diện trên quê hương ta, tôi phải núp dưới danh nghĩa
Làng Cô Nhi Long Thành. Hôm nay chúng ta đã đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào. Tôi ra
lệnh cho anh Nguyễn Đức (nhạc sĩ) lập những tiểu tổ để chúng ta thành lập Biệt
Đội Văn Nghệ …”. Chú Tùng Lâm nghiêng đầu nói nhỏ vào tai tôi: “Tuyến, khóc nữa đi con, mầy khóc nữa đi
con”.
Tôi thất vọng não nề. Trong khi chị Kim
Cương thao thao bất tuyệt, tôi không còn nghe hay không muốn nghe gì nữa cả.
Trời ơi, thần tượng sụp đổ ! Kim Cương là Việt Cộng nằm vùng đã giúp cho cộng
sản cướp đoạt miền Nam, áp bức bóc lột người dân, đưa đất nước đến chỗ sắp bị
diệt vong, mà sao lại dám nói là mình yêu nước ???
Vài tuần sau, tôi gặp bác Bảy Nam, mẹ
của chị Kim Cương, đi xích lô máy ngừng trước nhà. Thấy tôi Bác hỏi : “Kim Tuyến, con đi đâu đây?”. Tôi chào
Bác và trả lời “Dạ, đây là nhà con”.
Bác nói tiếp: “Bác vào thăm ông Trần Tấn
Quốc, vì nghe ổng sắp dọn về Cao Lãnh ẩn dật. À, con có nhận được thơ của chị
Kim mời con tham gia ban kịch không? Chị Kim thích con đóng kịch với chị lắm.
Ngày phát role (*chọn người vào vai) chị Kim chờ con quá trời”. Tôi chỉ còn biết đáp: “Dạ…Dạ…tại con bịnh”.
Sau đó mấy ngày Má Bảy Phùng Há nhắn
tôi đến nhà. Bà mặc áo dài chờ tôi, Bà cho biết Bà muốn đưa tôi lên Sở Thông
Tin Văn Hóa trình diện để hát cho đoàn Sài Gòn 1 với nghệ sĩ Thành Được. Trước
đó tôi luôn được Má Bảy mời hát chánh cho ban cải lương Phụng Hảo và Vân Kiều
trên TV với anh Thanh Sang, và lần sau cùng với anh Thành Được tuồng Cạm Bẫy Đô
Thành của soạn giả Ngọc Điệp. Má Bảy bảo tôi về thay áo dài cho đàng hoàng, “cách mạng không thích ăn mặc như vậy đâu
con”, vì tôi đang mặc quần ống loa và áo thun màu vàng với chữ Have a
nice day, áo bỏ trong quần, đeo dây belt to tướng. Tôi chào Má Bảy, trở về nhà
tôi, và trốn luôn Má Bảy.
Nhưng rồi sau 1975, chị có tiếp tục
sinh hoạt văn nghệ bình thường không? Những ngày đó như thế nào?
Sau ngày 30/04/1975, văn nghệ sĩ, nhạc
sĩ miền Nam hầu như thất nghiệp hết. Cứ một hoặc hai ngày là có ba người bộ đội
mang dép râu đi vào nhà tôi, ngang nhiên đi từ trước ra sau, rồi ngồi chồm hỗm
trên salon và nói là “Chúng con đến thăm
Mạ (Mẹ tôi)”. Lần lượt cán bộ, rồi tới ‘Cách Mạng 30’ (*thành phần
hưởng ứng với chế độ mới ngay sau ngày 30-4) kéo tới nhà tôi kêu
gọi tôi tham gia. Họ bảo: “Chị là nghệ sĩ
nên sẽ có tác động lớn đối với quần chúng, chị sẽ ca hát và hướng dẫn quần
chúng. Mới giải phóng nên cách mạng còn nghèo. Chúng tôi sẽ cấp cho chị một chỗ
ngủ nghỉ tại trụ sở ngoài đường Lê Quang Định, nơi chúng tôi tịch thu của bọn
bám chân đế quốc Mỹ, chúng tôi cung cấp cho chị một bữa ăn cho một ngày… “.
Tiền lương thì không có.
Họ yêu cầu tôi theo họ ra Quận và định
chở tôi bằng xe đạp. Tôi bảo họ cứ đi trước, tôi sẽ chạy xe theo. Quận của họ
là bãi đất trống ngay ngã 5 Bình Hòa. Một nhóm người, già trẻ bé lớn đứng bao
quanh một thanh niên nhỏ con, ốm nhách đang ôm cây đàn, vừa hát vừa chỉ dẫn tất
cả hát và diễn tả bằng chân: “Ta lên
giây đàn… từng tưng…”. Mọi người nhìn theo anh nầy, cùng hát cùng co chân,
đưa đầu gối cao ngang bụng, hai tay cũng làm bộ như đang cầm cây đàn. Tôi thầm
nghĩ “trình diễn kiểu gì mà giống như một bầy khỉ đột vậy?” Tôi cảm thấy xấu hổ
cho cậu thanh niên, và tội nghiệp cho những người dân đang bị bắt làm những trò
quái đản. Mặt tôi nóng bừng, tay chân tôi lạnh, chắc là bị lên máu. Tôi nói với
anh cán bộ là tôi bị bệnh rồi và tôi phải về nhà chữa bệnh gấp.
Cả xóm nhà vùng tôi ở rất bực mình vì
những cái loa tuyên truyền láo khoét. Mới hừng sáng loa phát rùm lên kêu mọi
người thức dậy tập thể dục, nghe rất chói tai nhức óc. Có lần họ cho người đến
từng nhà trong xóm kiểm kê xem nhà có cầu tiêu không? Loại nào? Ngồi bàn hay
ngồi chồm hỗm có cái lỗ ?…
Hoàn cảnh chị thì như vậy, nhưng bạn bè
quen biết trong nghề thì thế nào? Họ có gặp những nghịch cảnh như chị không hay
mọi thứ dễ dàng hòa nhập hơn?
Tôi có người bạn tên Mai, nhà chị ở đường
Ngô Tùng Châu, Gia Định. Một dịp tôi đến nhà chị thì thấy một nhóm công an
phường ngồi đầy nhà. Chị nói nhỏ với tôi là họ ngang nhiên vào nhà, họ còn tự
động lấy thức ăn trong tủ lạnh. Tôi bênh bạn nói: “Chị này ở một mình, không có chồng, tại sao các anh tự nhiên vào nhà
người ta vậy?” Họ đáp “À, thì
chỉ là đến thăm chị Mai thôi”. Tôi chợt nhớ đến chị bạn có chồng nhạc sĩ cổ
nhạc đang là quân nhân của Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung Ương và đang có nhà trong
khu gia binh, tôi hỏi: “Mấy gia đình vợ
con lính VNCH sống trong trại gia binh, bây giờ có được tiếp tục ở không?”.
Tên Ba Tấn, mặt mày gian ác, trả lời: “Chúng
đã tiếp tay cho bọn Thiệu Kỳ bán nước, chúng không có quyền ở”. Tôi
hỏi: “Vậy ai sẽ ở?”. Hắn đáp: “Chúng tôi, những người có công với cách
mạng”. Tôi nói tiếp: “Theo tôi, các
anh là cách mạng giải phóng miền Nam, nên dành những căn nhà đó và các biệt thự
của cái bọn mà các anh cho là bám chân đế quốc Mỹ bỏ lại, đem cấp cho các người
nghèo khổ đang ở gầm cầu xó chợ. Còn các anh nên che chòi ở, thì dân chúng sẽ
phục các anh vô cùng. Các anh vào ở các nhà này tôi e dân chúng sẽ nghĩ lầm về
cái từ giải phóng của các anh. Còn xe tăng, xe nhà binh, máy bay của đế quốc Mỹ
bỏ lại, các anh nên bắt chước Campuchia đốt bỏ hết đi, đừng nên xài bất cứ cái
gì của Mỹ Ngụy để lại”.
Ba Tân tức giận gọi đồng bọn. Mấy chiếc
xe mô tô hụ còi rầm rộ chạy đến, chĩa súng bắt tôi giải đi về phường. Đến
chiều, một thanh niên trẻ ôm 1 tập giấy tờ mở cửa sắt vào gặp tôi. Em có
vẻ ngạc nhiên nói: “Trời ! Chị Tuyến, sao
chị vào đây? Em là Đạt bạn của thằng em chị, em học ở Đạt Đức. Em có đến nhà
chị hoài mà không gặp chị, chị đi hát hoài nên không biết em”. Rồi Đạt hỏi
tôi chuyện gì xảy ra và Đạt đề nghị tôi viết vào một tờ giấy, nhận rằng mình
không hiểu rõ đường lối của cách mạng, xin lỗi cách mạng, ký tên, rồi Đạt sẽ
trình cấp trên và họ sẽ thả tôi. Tôi không chịu viết vì nghĩ mình không có tội
gì cả. Đạt khuyên tôi: “Họ đã ghi vào hồ
sơ và buộc chị vào tội phản động, họ sẽ đưa chị đi xa lắm…Hay là vầy, em viết
gì kệ em, chị chỉ ký tên vào, họ sẽ thả chị ra”. Nghĩ đến con, đến Má tôi
và các em rất cần tôi, tôi ứa nước mắt ký vào.
Vài ngày sau, anh Vinh từng là quản lý
của các đoàn cải lương trước 1975 đến nhà tôi và cho biết Cục An Ninh Nội Chính
mời tôi về làm đào chánh cho đoàn. Tôi nói với anh Vinh: “Nếu thương em, xin anh về nói với họ là em đang bệnh. Anh biết không,
vì cái cục R nầy mà em bị lên tăng xông, bệnh gần chết”.
Vài tuần sau, chị Bạch Lan Thanh đến
nhà mời tôi đi hát với nghệ sĩ Tùng Lâm và anh Giang Tử, do anh Tony Quang ảo
thuật gia tổ chức. Chương trình văn nghệ bỏ túi có ca tân cổ, có kịch, có ảo
thuật và xiệc. Trong đêm trình diễn ở 1 quận ở miền Tây, có cả bộ đội mang dép
râu, ngồi chồm hỗm trên những băng ghế dài bằng cây, xem có vẽ thích thú vỗ tay
và yêu cầu tôi hát tân cổ bản “Những Đồi
Hoa Sim”, rồi “Tình Đầu Tình Cuối”,
và “Tình Đời” song ca với Giang Tử.
Sau đó là phần ảo thuật và hài kịch. Vãn hát xong, thì Thông Tin Văn Hóa
xuống họp với chúng tôi. Một cán bộ với giọng Bắc nói: “Sao tên của Tùng Lâm và Kim Tuyến to thế ? Ngoài Bắc chúng tôi không
có cá nhân đấy nhé. Yêu cầu anh Tùng Lâm đừng diễu nữa nhé”. Tôi nghĩ
thầm: “Danh hài mà không cho diễu là
sao?”.
Mọi người yên lặng, tôi lên tiếng: “Xin lỗi anh, anh tên gì ?” Anh ta đáp: “Chị cứ gọi tôi là anh Ba”. Tôi nói tiếp: “Anh Ba, theo tôi có lẽ ca nghệ sĩ văn công ở ngoài Bắc hát được nhà
nước trả lương. Nhưng ở đây là do tư nhân tổ chức, cần bán vé vào cửa, nên phải
quảng cáo tên nghệ sĩ để khán giả biết mà mua vé vào xem, nhờ đó chúng tôi mới
có chén cơm”. Anh Ba nhìn tôi lên giọng: “Yêu cầu chị Kim Tuyến và anh Giang Tử không được mặc đồ Mỹ Ngụy mà
phải mặc đồ bà ba đen, quấn khăn rằn giống Bác ấy”. Trước khi ra về,
có hai cán bộ đứng dậy đặt tấm giấy lên bàn, nghiêm giọng nói: “Yêu cầu chị Kim Tuyến hát bài nầy”.
Tôi nhìn vào, thấy dòng chữ: Vọng Cổ Bà Mẹ Việt Nam bắn Mỹ cứu quốc. Khi họ đi
rồi tôi nói : “Chú Lâm, chắc con nghỉ
hát”. Các em trong ban nhạc nhốn nháo: “Chị
Tuyến về, tụi em cũng ôm đàn về luôn”.
Tối hôm đó tôi trở về căn nhà của dân
do Tony Quang mướn. Bước ra phía sau nhà, tôi thấy chú Tùng Lâm ngồi bó gối
trầm ngâm bên chai rượu dưới ánh trăng. Tôi ngồi xuống, bưng chai rượu uống một
hơi, dù tôi không hề biết uống rượu, uống để chia sớt nỗi đau với chú, và uống
để cho vơi đi nỗi uất hận và tủi nhục mà kẻ chiến thắng muốn áp đặt quyền dạy
dỗ chúng tôi. Niềm đau tủi đã dâng trào … Hai chú cháu gục đầu vào nhau khóc
nức nở. Hôm sau tôi từ giã chú Lâm, về lại Sài Gòn và tìm cách vượt biên.
Những ngày đầu sau 30 tháng Tư,
tôi thấy TV phát hình vở cải lương hồ quảng của các nghệ sĩ miền Bắc. Họ
không có đôi hài để mang, họ mang dép râu, trang phục rất nghèo nàn. Có một vở
kịch mà diễn viên mặc áo đầm Liên Sô nói về điện Cẩm Linh chiếu trên TV và các
ca nghệ sĩ phải chào cờ của Liên Sô. So sánh với miền Nam, các nghệ sĩ cải
lương hồ quảng ăn mặc rất đẹp. Các kịch sĩ không hề diễn kịch về Tòa Bạch Ốc và
chúng tôi không hề phải chào cờ Mỹ. Chúng tôi làm việc cho Ban văn Nghệ Hoa
Tình Thương/ Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị và cơ quan thông tin JUSPAO, chúng
tôi chỉ hát những bài ca ngợi quê hương, tình yêu và ca ngợi sư hy sinh của
những chiến sĩ VNCH, chứ không hề có những bài ca sắt máu kiểu Cộng Sản “Thề phanh thây uống máu quân thù”.
Với nghệ sĩ thì như vậy, chung quanh
chị, còn những người Sài Gón khác ra sao? Chị có còn nhớ một vài điều gì đáng
nhớ vào thời điểm đó?
Một buổi trưa, nằm nghe tiếng hát lạ : “Thăm thẳm chiều trôi… khuya anh đi rồi
sao trời đưa lối…” tiếng hát đầy xúc cảm như muốn xé cả ruột gan. Tôi bước
ra lan can nhìn xuống đường ngay gốc cây trước nhà tôi, một người đàn ông mặc quần
lính VNCH và chiếc áo thun cũ, cụt 2 chân, đang ôm đàn hát…Tôi xúc động rơi
nước mắt nhớ lại những ngày hát cho các anh chiến sĩ tại các tiền đồn Pleiku,
Kontum, Bệnh Viện Cộng Hòa, Bệnh Viện Lê Hữu Sanh v.v… Hình ảnh quá đau xót của
những thương phế binh bị đuổi khỏi bệnh viện đi qua nhà tôi trong buổi chiều
30/04/1975, hình ảnh một người đàn ông ngã quỵ trước cửa trong đêm tối, tôi và
các em tôi phụ đưa anh vào nhà, nấu nước trà gừng và pha sữa, rồi cạo gió cho
anh, lúc anh tỉnh dậy chúng tôi mới biết anh là lính VNCH. Hôm sau, lại một phụ
nữ ngã gục trước nhà tôi vì đói quá, chúng tôi giúp chị qua cơn đói.
Được biết chị vượt biển đi từ rất sớm,
đến Mỹ, chị có gặp lại đồng nghiệp và nối lại nghề diễn của mình?
Tôi vượt biên vào cuối năm 1978 với gia
đình, đứa con nhỏ nhất của tôi mới 10 ngày tuổi. Chuyến vượt biển hãi hùng như
bao nhiêu nạn nhân vượt biển khác. Cuối cùng chiếc tàu nhỏ bị lật vì sóng
to và đụng đá ngầm trước khi vào đến bờ biển Mã Lai, làm cho một số người chết.
Gia đình tôi may mắn được cứu thoát và sau đó được định cư tại Hoa Kỳ với tư
cách tỵ nạn chính trị.
Những ngày đầu đến Mỹ, tôi cũng như bao
nhiêu người tỵ nạn khác, được chính phủ Mỹ giúp đỡ. Tôi đến trường học tiếng
Anh. Chị Túy Hồng là người đầu tiên mời tôi hát trên đất Mỹ. Tôi dành một
buổi hát tại Los Angeles cho anh Bảo Ân. Sau đó lịch trình diễn của tôi khá bận
rộn: hát gây quỹ cho Chùa, Nhà Thờ, Kháng Chiến… hát cho các phòng trà, vũ
trường, đại nhạc hội… thu video cho nhiều vở kịch và tuồng cải lương và các bài
tân nhạc, trình diễn nhạc kịch cho NS Hoàng Thi THơ, trình diễn văn nghệ tại Âu
Châu và các nước Canada, Nhật Bản, Úc…
Đã có lúc nào chị quay lại Việt Nam, để
nhìn lại, nhớ lại?
Tôi có trở về Việt Nam sau khi Mẹ tôi
mất năm 2010, lý do là lo giải quyết tro cốt của Ba tôi để lại từ năm 1973.
Trong thâm tâm tôi nguyện lo xong là không bao giờ muốn trở về khi chế độ cộng
sản vẫn còn trên quê hương Việt Nam. Trong chuyến đi này tôi có gặp lại vài
người bạn thân quen từ thuở nhỏ, những người bà con và vài người bạn đồng
nghiệp. Lúc tạm trú tại một khách sạn tại Sài Gòn tôi gặp những người làm việc
ở đó nói toàn giọng Bắc mới sau 75 rất khó nghe.
Hầu như những người Bắc 75 đã vào chiếm
cứ hết những căn nhà mặt đường khu thương mại của Sài Gòn, trong đó có ngôi nhà
trước kia của tôi. Sài Gòn trở nên quá chật chội, lưu thông tắc nghẽn, khói bụi
mịt mù, không tôn trọng luật lệ, cảnh sát giao thông làm tiền trắng trợn. Đạo
đức suy đồi, tham nhũng tràn lan. Không có một quốc gia nào trên thế giới mà
muốn vào hoặc ra khỏi phi trường là phải nộp tiền mãi lộ nếu muốn được yên
thân. Đi đâu tôi cũng thấy biểu ngữ: “Quyết
tâm làm sạch đường phố”… hết ‘quyết
tâm’ này đến ‘quyết tâm’ kia, hết
‘phường văn hóa’ đến ‘khóm văn hóa’, mà cán bộ và công an thì
đối xử với dân rất vô văn hóa. Tôi chưa từng thấy nước nào giăng quá nhiều biểu
ngữ dạy dỗ dân như Việt Nam Cộng Sản. Tôi cảm thấy xa lạ và cô đơn trên
chính quê hương của mình.
Chị chọn lựa ra đi và thật sự không hối
tiếc? Được biết chế độ mới ở Việt Nam cũng nhiều lần mời chị trở lại sân khấu
và sống với nghề như cũ. Thử nghĩ lại, chị ra đi chỉ vì bất mãn tạm thời hay có
thêm những kinh nghiệm nào khác?
Sau 10 năm định cư trên nước Mỹ tôi mới
nộp đơn xin gia nhập quốc tịch Mỹ. Ngày tuyên thệ tôi thấy lòng ngậm ngùi nghĩ
đến thân phận mình cũng có một quê hương, tại sao hôm nay mình phải xin được
trở thành công dân của một nước khác không cùng màu da? Nước mắt tủi hờn lại có
dịp rơi.
Sau khi quyết định nghỉ hát tại Việt
Nam (1975), tôi không theo dõi các chương trình TV và ít giao thiệp, nên không
rõ các sự việc xảy ra cho các nghệ sĩ đồng nghiệp ở Việt Nam. Kỷ niệm đáng nhớ
trước khi ra đi là có một ngày anh Nhật Trường đến nhà tìm tôi để mời tôi hát
cho anh lưu diễn miền Tây, nhưng tôi bận rộn lo chuyện vượt biên. Một kỷ
niệm khác là vào một buổi tối, tôi gặp Bà Năm Sa Đéc trước một tiệm phở trên
đường Hiền Vương (*nay là đường Võ Thị Sáu).
Bà Năm Sa Đéc (Má Năm) có đóng chung với tôi trong phim “Đỉnh Núi Mây Hồng”. Má Năm vừa đưa
tay chỉ lên đầu vừa nói với tôi: “Tụi nó
bắt Má Năm học tập cải tạo, nhưng đầu này có sạn rồi… còn lâu ! “. Ánh mắt
Má Năm sáng rực nỗi phẫn uất trong đêm tối.
Tôi có một người em kết nghĩa tên
Nguyễn Văn Trảng là đệ tử của ông Anh Lân, khi viết kịch hay viết báo em lấy
biệt hiệu là Vương Thế Trung. Em tiếp tục học và đã tốt nghiệp kỹ sư (Phú Thọ),
tôi có dự lễ tốt nghiệp của Trảng năm 1973. Mẹ Trảng tu ở chùa Cao Đài, Ba
Trảng mất sớm. Một ngày nọ (1975), Trảng ghé nhà tôi và cho biết em đang hoạt động
cho Phục Quốc Quân tại Tây Ninh, tôi gởi cho em một số tiền để em hoạt động.
Năm 1978 tôi được tin Trảng đã bị bắt.
Năm 1983, soạn giả Trần Trung
Quân từ Pháp sang mời tôi thu hình vở cải lương “Nước Mắt Người Đi” với Dũng Thanh Lâm, nội dung kể lại cuộc đời
của các chiến sĩ phục quốc anh hùng. Tôi kể chuyện tôi có cậu em kết nghĩa tên
Trảng theo Phục Quốc Quân bị cộng sản bắt, không biết giờ ra sao. Bất ngờ, anh
Trần Trung Quân cho biết anh có bà Mẹ hay đi chùa Cao Đài ở Tây Ninh vừa qua
Pháp đoàn tụ với anh, bà Mẹ kể rằng Hiền Tài Nguyễn Văn Trảng hoạt động phục
quốc bị cộng sản gài bắt và đưa ra xử trước tòa án nhân dân. Cộng sản kết tội
Nguyễn Văn Trảng là phản động. Trảng hiên ngang hét lớn: “Tôi không phản động, Hồ Chí Minh mới là kẻ phản động”. Trảng bị
bắn chết ngay tại chỗ. Anh Trần Trung Quân nói anh đã đưa câu nói này của Hiền
Tài Trảng vào trong vở tuồng do Dũng Thanh Lâm đóng vai chiến sĩ VNCH.
Tôi lặng người đau đớn nát cả lòng, nhớ đến hình ảnh Trảng đạp xe đạp lộc
cộc đến chỗ tập kịch. Tôi đề nghị giúp Trảng mua xe mobilette để làm phương
tiện di chuyển. Trảng hứa trả lại sau khi ra trường làm việc. Tôi thương em như
thương chính tôi vì nhớ cảnh tôi phải bỏ dở việc học để đi hát kiếm tiền phụ
giúp Cha Mẹ nuôi các em, khi Ba tôi gặp khó khăn tài chánh vì Việt Cộng liên
tục đắp mô đặt mìn trên tuyến đường Sài Gòn – Vĩnh Bình, làm cho chiếc xe đò
của Ba tôi không hoạt động được. Tôi nói Trảng cứ yên tâm, tôi tặng Trảng vì
nghèo, mồ côi cha, hiếu học, xem như tôi đóng 2 show kịch TV không lãnh thù
lao. Trảng cảm động rưng rưng nước mắt.
Năm 1995, điêu khắc gia Nguyễn Thanh
Thu tác giả bức tượng Tiếc Thương ở nghĩa trang quân đội Biên Hòa gọi điện
thoại tìm tôi. Anh cho biết anh có 1 cô bạn là nữ quân nhân vừa qua Mỹ đang ở
Boston đi diện HO có biết một số tin tức về Nguyễn Văn Trảng. Tôi hẹn gặp chị
tại nơi anh Thu cư trú ở Garden Grove, California. Chị cho tôi biết là có
1 thời gian ngắn chị bị giam chung với Trảng, Trảng thường nhắc đến Kim
Tuyến và nói nếu chị ra được khỏi tù thì nhờ chị tìm gặp chị Tuyến, nhắn rằng
em lúc nào cũng thương chị Tuyến. Nhưng tiếc thương thay cộng sản đã giết Em.
Anh Nguyễn Thanh Thu có ý định tạc một bức tượng của Trảng, nhưng không thành
vì lúc đó không ai có được một bức hình của Trảng. Chắc anh Nguyễn Thanh Thu
còn nhớ câu chuyện của Trảng. Tôi mong được gặp lại chị nữ quân nhân mà tôi đã
gặp 20 năm trước. Nhớ đến Trảng tôi cảm thương và liên tưởng đến các thanh niên
nam nữ trẻ tuổi như Trảng đã anh dũng tham gia phong trào Phục Quốc bị tra tấn,
tù đày và sát hại. Tôi có một ông cậu ruột (cậu Lữ Minh Bạch) là một sĩ quan
hải quân VNCH, cũng hoạt động phục quốc, đã bị cộng sản bắt và bị kết án 18 năm
tù.
Tôi đã khóc khi đọc những bài viết của
những người Tù chính trị sau khi định cư ở Mỹ qua diện HO kể về những nhục hình
mà những người Cộng sản đã trả thù tàn độc, tôi lại càng căm thù chủ nghĩa Cộng
sản.
Sau một thời gian sống và làm việc ở
Mỹ, chắc chị rồi cũng dần dần gặp lại ít nhiều các đồng nghiệp trong Việt Nam
qua Mỹ du lịch hoặc biểu diễn, cảm giác của chị thế nào?
Bận rộn với gia đình và các sinh hoạt
văn nghệ ở Mỹ, nhưng tôi vẫn thường liên lạc với chị Như Mai và Kim Hoàng vì có
mối thân tình từ lúc chị mời tôi đóng vai chánh trong các vở kịch và tuồng cải
lương trên TV, đài phát thanh và đóng phim “Vực Nước Mắt”. Lúc chị Như Mai điều hành Chùa Nghệ Sĩ, tôi có trợ
giúp cho chi phí xây một bức tường quanh nghĩa trang nghệ sĩ. Năm 1993, tình cờ
tôi được biết qua chị Như Mai là Lê Duy Hạnh, chủ tịch Hội Sân Khấu trong Việt
Nam, đang có kế hoạch giao lưu văn hóa. Bắt đầu họ sẽ gởi một hai ca nghệ sĩ ít
hoặc không bị chống đối đến Mỹ hát trước để tránh bị biểu tình phản đối, sau đó
họ sẽ tiếp tục gởi tiếp nhiều ca nghệ sĩ khác ra hải ngoại.
Chị Út Bạch Lan đến
Mỹ trước tiên. Cô chủ nhà hàng Anh Thy và cô Sáu Châu gọi báo cho tôi biết và
muốn tôi cùng gặp chị Út Bạch Lan. Tôi đến nhà hàng Anh Thy, nhìn thấy
anh Duy Khánh và Lâm Tường Dũ, hai anh đưa cho tôi xem tờ quảng cáo quay roneo
có hàng chữ: Tái ngộ sầu nữ Út Bạch Lan… với sự bảo trợ của Duy Khánh,
Kim Tuyến, Lâm Tường Vũ. Họ tự động ghi tên tôi vào thành phần ban tổ chức mà
không hề hỏi xem tôi có đồng ý không. Tôi nói: “Tôi chỉ muốn đến thăm chị Út Bạch Lan như một đồng nghiệp đàn em chào
mừng chị, nhưng tôi không muốn có tên trong danh sách bảo trợ hay ban tổ chức,
dù rằng tôi thương mến chị Út Bạch Lan”. Sau đó tôi được biết nhà
hàng Seafood World từ chối cho thuê để tổ chức văn nghệ vì ngại sẽ có cuộc biểu
tình chống đối, nên tất cả kéo về tổ chức tại quán Anh Thy, một nhà hàng nhỏ
hơn.
Từ năm 1993 khi được biết cộng sản phát
động kế hoạch giao lưu văn hóa, tôi có suy nghĩ nếu tiếp tục hoạt động văn nghệ
thì vô tình tôi tiếp tay cho cộng sản thực hiện ý đồ ru ngủ và đánh phá cộng
dồng người Việt tỵ nạn. Tôi đã bất hợp tác từ Việt Nam và đã vượt qua quá nhiều
nghiệt ngã, cuối cùng thoát khỏi cộng sản VN, thì tại nơi đất Mỹ này tôi vẫn có
cơ hội sống bằng trí óc và đôi tay của mình. Tôi quyết định ngưng hát. Từ năm
1993 tôi chỉ hát một lần để ủy lạo các gia đình H.O. theo lời mời của anh
Nguyễn Mậu Quý, chủ tịch Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị. Trong thời điểm đó, nhạc sĩ
Hoàng Thi Thơ đã book tour bên Âu Châu và mời tôi tiếp tục trình diễn nhạc kịch
Ả Đào Say, nhưng tôi từ chối. Em Chí Tâm cũng muốn tôi kết hợp trình diễn với
anh Thành Được, và rất nhiều nơi mời tôi đi hát, nhưng tôi vẫn không nhận lời
mời. Điều tôi suy nghĩ có thể không đúng với những người khác, nhưng tôi không
thể, hay đúng hơn không muốn giải bày. Năm 2002, anh Nhật Trường mời tôi hát
giúp cho 2 đêm Văn Nghệ Giã Từ Sân Khấu, tôi nhận lời vì tôi cùng quan điểm với
anh khi nghe anh nói anh chống lại kế hoạch giao lưu văn hóa và không muốn đứng
chung sân khấu với các nghệ sĩ do cộng sản đưa sang.
Năm 2002, chị Bạch Tuyết qua Mỹ và gọi
điện thoại cho tôi, chị nói muốn đến nhà thăm tôi. Tôi vui mừng vì chúng tôi đã
từng đi hát chung ở đoàn Thống Nhứt lúc tôi còn là “đào con”. Chị Bạch Tuyết
may mắn giờ chót được thay thế vai của chị Diệu Hiền trong vở “Đẹp Duyên Chùa Tháp” tức “Tiếng Hát Muồng Tênh” của soạn giả Mộc
Linh. Hai ông bầu Út Trà Ôn và Hoàng Giang sắp xếp cho Bạch Tuyết thế vai
vì Diệu Hiền bỗng nhiên biến mất, trong khi Bạch Tuyết chưa có vai trò nào
trong vở tuồng này, còn tôi được đóng vai người em gái nhỏ. Thời gian sau tôi
rất thích chị đóng chung với anh Hùng Cường ở đoàn Dạ Lý Hương, vì hai người
diễn rất sống động, rất thật trong các vở tuồng xã hội cùng với Ngọc Giàu, Văn
Chung, Dũng Thanh Lâm, Thanh Tú.
Phương Uyên lái xe chở chị Bạch Tuyết
đến nhà chúng tôi. Sau khi chụp vài tấm ảnh kỷ niệm, tôi mời chị và Uyên đi ăn
tối tại restaurant COCO. Chị bảo là chị ăn chay và chỉ ăn được món nào có tôm.
Tôi tưởng chị là người Công Giáo. Tôi hỏi thăm về tin chồng chị là ông
Đức bị bắt và bị Việt Cộng tịch thu tài sản, và chắc chị khổ với Việt
Cộng vì ngày xưa chị có bức hình đội nón sắt có hàng chữ “Bỏ Bom Hà Nội” và chị đưa ngón tay cái lên. Chị nói ” Em ơi… ờ thì…nhưng chị không coi trọng
tiền bạc, vật chất. Chị tu rồi em ơi, thỉnh thoảng chị được thầy Thích
Thanh Từ là thầy của chị, vì bận quá, phật tử đông quá, đã giao cho chị đi
thuyết pháp. Vấn đề anh Đức ở tù thì khi hoạn nạn mình phải chấp nhận, khi nào
trời quang mây tạnh thì hai đứa che dù đi chung”. Tôi hỏi thăm về sinh hoạt
và cuộc sống của chị tại VN thì chị cho biết chị có nhiều bạn trẻ thương
yêu, các bạn này có hãng nước uống và cho chị vào một phần hùn nhỏ để sống nên
chị không phải bận tâm. Chia tay ra về tôi thấy vui cho chị vì nghĩ rằng
chị đã tu đến mức đã đạt được chữ “ngộ” rồi, vì nhà cửa bị tịch thu, chồng bị
bắt bỏ tù mà không oán hận. Tôi thầm nghĩ, nếu là tôi thì tôi sẽ thù ghét CS
lắm.
Bạch Tuyết điện thoại cho tôi: “Chị có thằng con trai học Bang Giao Quốc Tế
ở bên Anh quốc. Hôm đám cưới cháu chị không qua được, chỉ có cô em kết nghĩa là
mẹ nuôi của nó đứng ra tổ chức. Chị muốn nó ra mắt cô chú đồng nghiệp cho phải
lễ. Chị mời em và ông xã đến rồi tụi mình đập bồn đập trống cho vui”.
Tôi nhận lời ngay. Đến nhà hàng Palace Seafood nơi tổ chức tôi nhận thấy đây là
một đám cưới vì cô dâu chú rễ mặc khăn đống áo dài theo trang phục đám cưới. Có
nhiều ca nghệ sĩ đến tham dự và chúng tôi cùng ca hát đóng góp thật sôi nổi với
MC Trần Quốc Bảo. Cô dâu Mỹ trông khá xinh xắn dễ thương. Trước khi tiệc tàn,
chị đến siết tay tôi và hẹn đến chơi nhà tôi vài hôm trước khi về lại Việt Nam.
Một buổi chiều, trên đường đến rước
chị, chúng tôi ghé mua tờ Việt Báo. Tôi giở tờ báo ra xem thì giật mình khi
thấy hình chị Bạch Tuyết đang quỳ lạy khán giả trên sân khấu tại San Jose với
hàng tít to: “Bạch Tuyết đã quỳ lạy khán
giả vì bị biểu tình phản đối”. Chúng tôi rước chị ở khu mobile home trên
đường Bolsa. Trong khi ông xã tôi đổ thêm xăng tại góc đường Brookhurst và
Hazard thì chị cầm tờ Việt Báo lên đọc rồi chị nói lớn: “Cũng thằng Mỹ nữa”. Tôi nói :
“Chuyện gì vậy chị?”. Chị tiếp: “Thằng
Mỹ không có tư cách gì để lật đổ chế độ Taliban”. Tôi hỏi: “Sao vậy chị ?”. Chị nói “Em ở Mỹ lâu mà em không biết gì sao Tuyến,
thằng Mỹ làm giàu nhờ bán vũ khí, nó muốn quậy lên để bán vũ khí”. Trời ơi,
sao luận điệu và giọng nói này của Bạch Tuyết giống y như phát ngôn viên Việt
Cộng Phan Thúy Thanh mà mỗi sáng lái xe di làm tôi hay nghe tin tức từ đài VOA
và BBC.
Về đến nhà, chị cầm tay tôi xem, thoạt
đầu, tôi nghĩ chị biết coi bói. Chị hỏi : “Tuyến,
em có bao nhiêu căn nhà?”. Tôi đáp: ”
Một căn nhà mà còn trả chưa xong đây chị”. Chị lại hỏi: “Em có bao nhiêu tiền trong nhà băng?”.
Tôi ngạc nhiên với 2 câu hỏi này. Chị bảo tôi về Việt Nam chơi và ở với chị.
Tôi nói: “Em ghét Việt Cộng. Vượt biên
suýt chết rồi chị”. Chị nói: “Thôi mà
em, đừng nghĩ vậy, chế độ bây giờ tốt đẹp hơn chế độ trước nhiều lắm”. Ông
xã tôi bất bình nói: “Chị nói chế độ bây
giờ tốt đẹp tại sao sau khi chấm dứt chiến tranh họ lại bắt sĩ quan, công chức
và những nhà trí thức VNCH giam cầm đày ải bỏ đói cho đến chết trong các trại
tù cải tạo?”. Chị lại nói: “Anh không
biết chứ Tuyết vô thư viện bên Anh đọc sách, có nhiều nước tan chiến tranh rồi
họ đem bắn bỏ hết, rồi ai làm gì họ”. Tôi bực mình nói: “Tốt đẹp gì chị, chế độ gì không có tự do
tôn giáo, như Linh Mục Nguyễn Văn Lý bị nhốt vào tù, Hòa Thượng Thích Quảng Độ
bị quản chế”. Bạch Tuyết nói: “Ai
biểu sống trong chế độ của người ta mà chống đối thì là chuyện đương nhiên”.
Tôi thất vọng ở tầm kiến thức nhỏ hẹp lệch lạc và lối lý luận sặc mùi cộng sản
của ‘tiến sĩ’ Bạch Tuyết. Chị còn hết lời ca tụng tâng bốc Nguyễn Minh Triết
nói anh ta giỏi đủ mọi thứ, trong khi ở thời điểm đó Nguyễn Minh Triết còn hoạt
động ở Sài Gòn và tôi chưa biết anh ta là ai.
Khi cuộc bàn luận quá căng thẳng tôi
đổi đề tài để nói về văn nghệ. Tôi nói “Má
em hay xem cải lương, thỉnh thoảng em cũng xem và thấy Tài Linh
diễn xúc động, chắc Tài Linh hiền lắm hả chị?”. Bạch Tuyết nói : “Những người nổi tiếng không ai hiền hết
em”. Rồi chị kể về anh Hùng Cường, chị bảo là Hùng Cường yêu chị lắm và
muốn cưới chị nhưng chị từ chối (?). Chị không biết rằng trong thời gian sống ở
Mỹ anh Hùng Cường rất thân với chúng tôi và hay kể về những cuộc tình của anh,
dĩ nhiên trong đó có Bạch Tuyết, anh Hùng Cường đã có mối quan hệ sâu đậm từ
Bạch Tuyết ra sao, và chị đã năn nỉ anh thế nào. Tôi nghĩ nếu Hùng Cường còn
sống tôi sẽ gọi anh đến để nghe Bạch Tuyết nói dóc. Đêm khuya quá, chẳng lẽ tôi
đẩy Bạch Tuyết ra khỏi nhà, còn đưa về thì tôi mệt rồi sau một ngày dài làm
việc. Chị hỏi tôi có muốn gởi tiền giúp Chùa Nghệ Sĩ không, tôi nói đã
giúp rồi, và lần này chỉ gởi ít tiền tặng Má Bảy Phùng Há.
Trước đây theo lời kêu gọi của Má Bảy
và 2 chị Như Mai Kim Hoàng, Chùa Nghệ Sĩ không có rào nên thỉnh thoảng phát
giác ra mồ mả bị đào bới vì họ muốn kíếm vàng bạc, đồng thời số nghệ sĩ già
không nhà cửa phải sống lang thang, nên yêu cầu chúng tôi giúp đỡ tiền xây rào
và mua tôn lợp phía sau chùa cho các cô bác có chỗ tạm trú. Chúng tôi đã gởi
tiền giúp. Sau đó chị Như Mai cho biết ông Võ Văn Kiệt chấp thuận cấp cho
1 miếng đất ở quận 8 để xây Nhà Dưỡng Lão Nghệ Sĩ. Tiền chúng tôi đã gởi, chị
Như Mai lo xây rào và trùng tu trong Chùa vẫn còn dư. Tôi yêu cầu chị Như Mai
bỏ số tiền đó vào bank để lấy lời lo thuốc thang cho những nghệ sĩ già đau yếu,
còn Nhà Dưỡng Lão hãy để cho chính quyền cộng sản lo.
Tôi không bao giờ quên ơn Má Bảy Phùng
Há, người mời tôi đóng nhiều vở tuồng trên TV, đã chỉ dạy thêm cho chúng tôi từ
anh Thanh Sang đến anh Thành Được. Má Bảy cũng từng nói: “Mấy ổng muốn mời Má làm chức này chức kia, nhưng Má nói Má không
thích làm chính trị, Má chỉ thích làm Văn Nghệ mà thôi”. Tôi lấy 100
dollars bỏ vào bao thơ trao cho chị Bạch Tuyết nhờ chị đem về trao cho Má Bảy.
Vài tuần sau tôi gọi điện thoại thăm Má Bảy và hỏi xem Má Bảy có nhận được tiền
không. Lúc đó có mặt ông bầu Xuân, tôi nghe tiếng Má Bảy nói lớn: “Ông Xuân ơi, Kim Tuyến nói có gởi Bạch
Tuyết đem về cho tôi 100 mà sao không thấy?”. Ông Xuân nói: “Bạch Tuyết bảo sung vào quỹ của Chùa”.
Tôi không hiểu tại sao chị Bạch Tuyết lại làm khác lời dặn của tôi, để cuối
cùng Má Bảy không nhận được gì cả !
Một lần nọ anh Hùng Cường dẫn anh Sáu
Thanh đến nhà thăm chúng tôi. Anh Sáu Thanh là 1 đại thương gia trước năm 1975,
chính anh là người cung cấp toàn bộ tiền bạc và phương tiện để thành lập đoàn
cải lương Hùng Cường – Bạch Tuyết. Sáu Thanh giao đoàn cải lương cho Hùng Cường
và chị Bạch Tuyết vì anh rất bận với các công ty lớn của anh. Đoàn cải lương
này là một đại ban, được khán giả nhiệt tình ủng hộ, lần trình diễn nào cũng
bán hết vé, thế mà Bạch Tuyết khai lỗ. Trước mặt chúng tôi, anh anh Sáu
Thanh nói với Hùng Cường: “Anh lập đoàn
hát này cho chú mầy mà chú mầy ham chơi quá, để cho con Tuyết lộng hành, nó đưa
người nhà của nó vào, nó kiểm soát mọi chi thu, cứ khai lỗ, để cuối cùng phải
giải tán đoàn hát”.
Ngày 27/10/2002 Bạch Tuyết tổ chức ra
mắt CD Kinh Pháp Cú chuyển thể cải lương tại Chùa Việt Nam trên đường Magnolia
của Thượng Tọa Thích Pháp Châu. Ông Thượng Tọa này từng có tai tiếng vì đã lăng
nhăng tình ái với một nữ Phật tử trẻ. Cuộc điện đàm hẹn hò dâm dục ở hotel của
ông sư này với cô gái đã bị thu băng toàn bộ. Vì vậy cho nên truyền thông và
báo chí hải ngoại kêu gọi biểu tình chống Việt Cộng Bạch Tuyết và Thượng Tọa
Pháp Châu. Hôm đó có rất nhiều người đến biểu tình, trong đó có tôi, trước cửa
chùa. Người biểu tình cho phát thanh cuốn tape dâm dục của Thượng Tọa Pháp Châu
và hô đả đảo Bạch Tuyết. Tôi nghĩ nếu anh Hùng Cường còn sống chắc anh cũng sẽ
đến biểu tình chống Bạch Tuyết, vì anh là người rất căm thù cộng sản. Dù rằng
khi còn sống anh đã từng kể chính anh là người giới thiệu anh Đức (một “Việt Kiều Yêu Nước” tại Pháp) cho Bạch
Tuyết sau vụ Bạch Tuyết bị vợ của ĐT Hoàng Đức Ninh làm nhục.
Trong một dịp thăm nhà thơ Nguyễn Chí
Thiện và đi ăn tối với anh, chúng tôi có kể cho anh nghe về Bạch Tuyết và Kim
Cương. Trong một lần nói chuyện trên Radio, anh Thiện đã có đề cập đến Việt
Cộng Kim Cương và Bạch Tuyết. Tôi quý mến anh Nguyễn Chí Thiện vì tư cách và sự
dũng cảm của anh. Chỉ vì can đảm dám nói lên sự thật của lịch sử và sự thật tàn
ác của chế độ cộng sản mà anh bị gần 30 năm tù ở miền Bắc. Trong tù anh vẫn
đứng thẳng, hiên ngang làm thơ vạch trần sự dã man của chế độ và dám chửi thẳng
Hồ Chí Minh.
Những gì tôi kể về Bạch Tuyết là hoàn
toàn sự thật, không thêm bớt, không trái với lương tâm. Một số đông trong đó có
tôi vẫn còn nhiều hoài nghi về Bạch Tuyết:
– Bạch Tuyết không học Trung Học, không
học Đại Học thì làm sao có bằng Tiến Sĩ ?
– Bạch Tuyết không rành tiếng Anh làm
sao vào thư viện của Anh đọc sách và tài liệu.
– Bạch Tuyết không nói và viết lưu loát
tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Đức thì làm Luận Án Tiến Sĩ bằng tiếng gì
? Không lẽ làm luận án ở ngoại quốc mà dùng tiếng Việt ?
– Bạch Tuyết có biết rằng mọi người đều
biết trên thế giới có nhiều bằng Tiến Sĩ Danh Dự được cấp do sự giới thiệu hay
quen biết. Có các trường Đại Học dỏm, không được chấp nhận, chỉ cần nộp cho họ
vài ngàn dollars là có bằng Tiến Sĩ giấy.
– Bạch Tuyết thù ghét Mỹ, vậy tại sao
thích đi sang Mỹ, cho con học ở Mỹ, đi làm ở Mỹ, lấy vợ Mỹ. Phải chăng Bạch
Tuyết muốn tìm một “bãi đáp an toàn” sau này ở Mỹ ?
Những câu chuyện của hôm qua bao giờ
cũng thật xúc động, dù chỉ là kỷ niệm. Nhưng có khi nào chị nhìn thấy sân khấu
ở quê nhà, sự rộn rịp hoặc giàu có của giới đồng nghiệp mà chạnh lòng? Hoặc chị
có lúc nào nghĩ rằng nếu chị nhượng bộ, ở lại, thì cũng đã có một cuộc sống
sinh hoạt sôi nổi, nhiều thu nhập như các nghệ sĩ khác?
Sau 37 năm sống trên đất Mỹ và 41 năm
miền Bắc cai trị miền Nam, tôi vẫn thường theo dõi các tin tức từ quê nhà và
rất buồn khi thấy cộng sản đã tạo ra một giai cấp mới, giai cấp cán bộ, con ông
cháu cha, tư bản đỏ, giai cấp này lộng hành, áp bức bóc lột người dân khốn
cùng. Luân lý, đạo đức suy đồi, cuộc sống bất an, luật pháp bất minh, môi
trường nhiểm độc, tham nhũng tràn đầy… Trong khi đó chính quyền lại “ác với dân, hèn với giặc” trước hiểm
họa mất nước vào tay giặc Tàu.
Tôi không dùng danh từ “chính quyền” cho CSVN, vì không ai bầu
cái Đảng cướp này cả. Chúng cưỡng chiếm miền Nam, áp đặt chể độ độc tài đảng
trị, thì không thể dùng danh từ Chính quyền. CSVN thắng VNCH do tuyên truyền dối
trá, quỷ quyệt, gian manh do HCM đem chủ thuyết ngoại lai quái đản từ Liên
Sô,Trung Cộng đặt lên đầu dân VN. CSVN xem văn nghệ sĩ là bộ môn tuyên truyền
hữu hiệu nhất, họ dùng nghệ sĩ để ru ngủ đồng bào quên đi tội ác mà chúng gây
ra. Kim Cương là một điển hình cùng một số văn nghệ sĩ được họ sử dụng.
Tôi thấy mình đã quyết định đúng khi
vượt biên rời khỏi chế độ cộng sản VN để cho gia đình và con cháu tôi có một
cuộc sống an lành và tốt đẹp hơn. Tôi đã quyết định đúng khi chọn nước Mỹ, một
nước tôn trọng tự do dân chủ và nhân quyền, một nước thật sự của dân, do dân và
vì dân.
Dạ, xin cám ơn chị,
28/7/2016
28/7/2016
Tuấn
Khanh (ghi)
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.