Việc “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh được vinh danh đã thổi bùng lại cuộc bút chiến kéo dài ba mươi năm, phơi bày mâu thuẫn giữa sự công nhận chính thức và những định kiến lịch sử đã in hằn trong một bộ phận công chúng.
Đây là lát cắt rõ nhất về cách mạng xã hội đối xử với nghệ thuật : Nó nâng ai lên cũng nhanh, và xé nát mọi thứ cũng nhanh không kém.
Được đưa vào danh sách 50 tác phẩm tiêu biểu sau ngày thống nhất, cuốn sách lần đầu tiên được trao sự chính danh xứng đáng. Sau hơn ba thập kỷ, nó đã chứng minh giá trị vượt thời gian, được dịch và ca ngợi trên thế giới như một trong những thành tựu lớn nhất của văn học Việt Nam thời Đổi mới.
Sự thừa nhận muộn mằn này cho thấy tâm thế tiếp nhận văn học đang đổi khác : Xã hội đủ trưởng thành để nhìn thẳng vào bi kịch chiến tranh, chứ không chỉ tìm kiếm giọng điệu hào hùng.
Nó cũng chính thức tách cuốn sách khỏi những nhãn chính trị từng đeo vào nó - trả nó về vị trí vốn có : Một tiểu thuyết viết về nỗi đau của con người. Nhưng chính sự tiến bộ ấy lại kích hoạt phản ứng dữ dội trên mạng xã hội. Người ta không đọc tác phẩm để hiểu, mà lao vào để xâu xé.
Căn nguyên nằm ở xung đột giữa sử thi và bi kịch.
Nhiều thập kỷ qua, công chúng quen với hình tượng người lính hoàn hảo. Người lính mà yếu đuối, ám ảnh, hút một điếu thuốc không đúng bối cảnh hay lỡ có một đêm lãng mạn… lập tức bị coi là bôi nhọ.
“Nỗi buồn chiến tranh” đi ngược lại hoàn toàn. Nó không xây dựng huyền thoại. Nó mở ra vết thương. Và việc vinh danh tác phẩm buộc những người bám vào quan niệm cũ phải đối diện với sự thật này - một cú chạm khiến họ phản ứng như kẻ phòng vệ. Thế là “xét lại lịch sử”, “bôi nhọ bộ đội”, “hạ thấp chiến thắng”… được tung ra như những tấm khiên.
Sự tàn nhẫn của mạng xã hội khuếch đại tất cả. Người ta không chỉ tấn công tác phẩm - mà tấn công luôn cả con người Bảo Ninh.
Một cái cúi đầu đầy xúc động của ông bị cắt xén, gán nhãn “hèn”, “khom lưng”, trong khi đó đơn giản chỉ là hành động biết ơn và tưởng niệm trước bao đồng đội đã nằm lại. Từ chối quyền được khiêm nhường của một nhà văn già - đó mới là sự tàn nhẫn.
Điều trớ trêu là giữa bão tố ấy, Bảo Ninh vẫn im lặng. Ông im lặng như suốt ba mươi năm qua : Để tác phẩm tự nói điều cần nói. Trong sự ồn ào, thái độ ấy càng trở nên đáng trọng. Một người đã đi qua những đổ nát lớn nhất không cần đôi co để tự bảo vệ mình.
Dù cộng đồng mạng có “cắn xé” thế nào, “Nỗi buồn chiến tranh” vẫn đứng vững. Một tác phẩm lớn không chết vì tranh cãi. Tranh cãi chỉ phơi bày sự yếu kém của một bộ phận độc giả- những người không đủ khả năng nhìn nghệ thuật bằng trái tim.
Không biết tri ân thì thiểu năng nhân tính. Không hiểu được lòng biết ơn thì mù lòa tri thức.
Bảo Ninh đã 75 tuổi. Ông viết để được giải thoát, không để được tung hô. Phần đời của ông -đã hoàn thành. Phần đời của cuốn sách - thuộc về công chúng. Nó sống hay chết, không còn nằm trong tay tác giả. Nhưng rõ ràng, sau ba thập kỷ, nó vẫn sống. Và sống mạnh hơn bao giờ hết.
Không gì quảng bá một tác phẩm cho bằng người ta đưa nó lên bàn giải phẫu. Văn học Việt Nam mấy khi làm được việc đó ?
Ps : Cụ nào chưa đọc thì đọc đi. Đọc rồi thì đọc lại. Bận thì nghe audio.
Nó buồn. Bi phẫn. Nặng nề. Quả có thế. Nhưng không nỗi buồn nào được viết ra đẹp đến thế, lấp lánh và trau chuốt đến thế. Nó là những viên ngọc quý của nền văn học nước nhà - ít nhất là về chất liệu văn học đẫm đầy trong hồn chữ.
Và nó - chữa lành. Đọc Nỗi buồn chiến tranh tôi thấy trân trọng, biết ơn những đau thương mất mát, và cả sự hy sinh của dân tộc này. Biết ơn sự bình yên. Đi qua nỗi buồn chiến tranh để chữa lành cho chính mình và thế hệ- đó là điều vĩ đại mà không giải thưởng nào chạm tới.
Cám ơn ông - Bảo Ninh.
KIỀU THỊ AN GIANG 04.12.2025

Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.