Ông ra đi lúc 8 giờ sáng nay (giờ Paris) tại Orleans!
Xin chân thành chia buồn với chị và gia quyến. Xin thắp một nén tâm hương cầu nguyện cho hương linh ông siêu thăng!
Không quên những ngày đầu gặp anh ở Paris trong chuyến sang Pháp lần đầu năm 2000. Anh đến thăm mình ở chỗ trọ để đưa đi chơi, vội quá, đỗ xe sai chỗ, bị phạt! Anh tổ chức cho mình nói chuyện về dịch thơ Apollinaire ở lớp Việt Nam học Đại học Paris 7.
Đặng Tiến sinh năm 1940 tại Quảng Nam, tốt nghiệp Đại học Văn khoa Sài Gòn năm 1963. Bắt đầu viết điểm sách, phê bình từ 1960, cho các báo Tin sách, Mai, Bách khoa… và nhiều nhất là cho tạp chí Văn. Ra nước ngoài từ năm 1966, lập nghiệp tại Pháp, dạy văn chương Việt Nam trong ban Việt học, Đại học Paris 7, từ ngày thành lập (1969) đến ngày nghỉ hưu (2005). Học thêm về lý luận văn học với Julia Kristeva và dân tộc học với Levi Strauss. Sau 1975, viết cho nhiều tạp chí ở trong nước. Tác phẩm chính: Vũ trụ thơ, Nhà xuất bản Giao điểm, 1972; tái bản năm 2008, kèm theo Vũ trụ thơ 2 tại Hoa Kỳ. Hiện nghỉ hưu tại Orleans, Pháp.
Đặng Tiến là một trong số không nhiều nhà nghiên cứu văn học chuyên sâu về Thơ Việt Nam, và thấu cảm Thơ như một Nhà Thơ!
Xin đưa lại một bài phỏng vấn về Thơ do nhà báo Lý Đợi thực hiện.
HOÀNG HƯNG 17.04.2023
Phỏng vấn Nhà phê bình Đặng Tiến: “Thơ là ngôn ngữ tự lấy mình làm đối tượng”
Vừa rồi, các bài viết của Đặng Tiến xuất hiện đồng loạt trên một vài báo và tạp chí nội địa. Tất cả điều này như là “bước đệm” cho một sự trở lại với độc giả “trong nước” của ông, để đến nay, Nhà xuất bản (NXB) Phụ nữ vừa cho phát hành tác phẩm phê bình văn học mới nhất. Từ Orleans (Pháp), ông dành cho độc giả Văn chương Việt những lời bộc bạch, nhân sự kiện xuất bản này.
* Được biết, để đọc lại và hoàn chỉnh bản thảo của tác phẩm Thơ – Thi pháp và Chân dung mà NXB Phụ nữ vừa ấn hành, ông đã về Việt Nam mấy tháng, để đi một vòng từ Bắc chí Nam, nhất là miền Trung. Điều này phải chăng là “nguồn cội” để hình thành nên cuốn sách này?
- Ừ, thì cứ nói như thế cho nó trang trọng, một cách đề cao tác phẩm, nhưng sự thật không như thế. Dự án về quê ăn Tết, vui chơi với gia đình, bạn bè đồng lứa cổ lai hy, và các bạn trẻ như L.Đ, Huỳnh Lê Nhật Tấn, Vi Thùy Linh… là có trước. Sau đó, cuối năm 2008, NXB Phụ nữ ở Hà Nội có nhã ý thu góp những bài viết cũ của tôi, từ non nửa thế kỷ, từ 1960, để xuất bản sau Tết. Như vậy là một công hai việc: những ngày Tết ở Đà Nẵng, chữa bản thảo trên máy vi tính, trao đổi với NXB qua điện thoại; vào thành phố Hồ Chí Minh chữa bản thảo trên giấy, sau cùng ra Hà Nội nhận sách và tác quyền khi in xong.
* Độc giả miền Nam và miền Trung đã từng ngưỡng mộ ông qua cuốn sách phê bình Vũ trụ thơ, rồi ngay bài tiểu luận Thơ là gì? (năm 1973, tạp chí Văn) cũng đã thành nền tảng tư duy của nhiều người làm thơ. Nay trong cuốn sách mà theo ông là “gồm nhiều bài tản mạn từ nửa thế kỷ nay, viết nhiều nơi, trong nhiều tình huống lịch sử và tâm trạng khác nhau, tại sao ông lại đặt bài « Thơ là gì? » lên đầu tiên?
- Đặt bài « Thơ là gì? » lên đầu sách, vì nó là bài lý thuyết cơ bản, có tính cách nhập đề, viết 1973, sau khi hòa ước đình chiến Paris được ký kết. Đúng như anh nói, nó có tham vọng làm tài liệu tham khảo cho những thế hệ độc giả sống trong hòa bình, bên ngoài những thành kiến chính trị, ý thức hệ… Nhưng không được phổ biến rộng rãi. Bây giờ mới in lại.
* Trong phần “Thi pháp”, ông đề cập mấy vấn đề chính? Còn phần “Chân dung”, nó sẽ gồm những ai – bởi ông đã viết về khá nhiều người – ai sẽ được chọn, và tại sao?
- Về “Thi pháp”, tôi chỉ đưa ra một ý chính: thơ là ngôn ngữ tự lấy mình làm đối tượng; khác với ngôn ngữ hàng ngày, là dụng cụ để biểu hiện một ngoại vật. Những bài khác minh họa ý đó, bằng những lập luận và ví dụ cụ thể.
Về “Chân dung”, tôi thỏa thuận với NXB đưa ra một hành trình tổng hợp về thi ca Việt Nam, đi từ Nguyễn Trãi qua phong trào Thơ Mới, các tác giả đương đại cả hai miền Nam Bắc như Lê Đạt, Bùi Giáng, Hoàng Trúc Ly, Phạm Tiến Duật… không phân biệt chính kiến. Vì số trang có hạn, nhiều chân dung tác giả khác phải dời lại cho cuốn sau.
Đây là cái nhìn hòa giải, của bản thân tôi sinh sống ở nước ngoài. Nhưng may mắn gặp sự đồng tình của NXB, mà tôi xin đề cao ở đây. Nhất là người chọn bài, biên tập, rất chuyên nghiệp, lại là người tôi chưa từng quen biết. Như vậy là có nguồn đồng thuận hướng về chân trời hòa hợp, là điều phấn khởi lớn. Đây là niềm vui của cá nhân tôi và bè bạn từ nhiều năm nay muốn có trong tay những bài viết của tôi để tiện việc tra cứu, hoặc chỉ để tìm lại một kỷ niệm. Nhưng nói rộng ra có thể là một tư liệu cần cho giới văn học, của một tác giả ít được biết, xem như là một khách tài tử của văn chương không mấy thiết tha với việc in ấn, không có bao nhiêu tham vọng về sự nghiệp. Cũng có thể xem như một thoáng cởi mở trong tình hình văn học hiện nay, với một người sống lâu năm ở hải ngoại.
* Điều mà ông muốn “nối lại” và “nói lại” với độc giả trong một hành trình minh định thơ là ngôn & ngữ, chứ không đơn thuần là nghĩa & ý. Cuốn sách này có phải là một “tóm lược” về điều đó ?
- Đúng là như thế. Chữ “đơn thuần” là chính xác.
Ngày nay trên thế giới, các lý thuyết về thi ca nhấn mạnh vào ngôn ngữ và ít quan tâm đến tư tưởng. Nhờ đó mà kiến thức về thi ca đã có nhiều tiến bộ. Trước kia và hiện nay trong nước, người viết phê bình thường dựa theo ấn tượng, theo kiểu Hoài Thanh. Có lúc lại theo đường lối, giáo điều, nên ngành lý luận thi ca mất hiệu lực. Người làm thơ không mấy tin cậy vào người phê bình, thậm chí còn “sợ” bị chê, “sợ” luôn cả được khen. Điều quan trọng với tôi trong các bài viết, không phải là khen chê, mà hiểu bài thơ, may ra hiểu được người làm thơ. Hiểu được nhau, gặp được nhau là quý.
Nói chung, cho đến nay, những bài phê bình, giới thiệu của tôi được sự hưởng ứng, đồng thuận của các nhà thơ. Theo tôi, đó là điều tôi may mắn.
* Từ cuốn sách này và những công trình khác mà bản thân đã và đang theo đuổi, theo ông thơ Việt thường thiên về ngôn ngữ, hay thiên về ý tưởng ?
- Thơ Việt thiên về ý, về nghĩa, từ truyền thống “thi ngôn chí” trong thơ cổ, ít khi thiên về ngôn ngữ, ít khi đạt đến vẻ đẹp của ngôn ngữ bên ngoài ý tưởng. Sau đó, hoàn cảnh lịch sử, chiến tranh, chính trị càng đưa thi ca sâu vào con đường duy lý, duy dụng. Từ đó, thơ có khi rơi vào chỗ dung tục, mất độc giả. Dĩ nhiên là cũng có nhiều thơ hay, thuộc nhiều lứa tuổi và trường phái khác nhau.
* Kế hoạch trong tương lai gần của ông là gì?
- Kế hoạch gần nhất là không làm gì cả! Nếu phải làm, thì chuẩn bị cuốn sách tiếp theo và dịch một vở kịch để diễn chơi. Cái gì cũng là chơi thôi. Quý hồ là gặp được độc giả cùng chia sẻ cuộc chơi, xem văn chương chữ nghĩa như một sân chơi để cùng nhau gặp gỡ. Văn học bản thân nó phải là nơi kết hợp và là niềm hạnh phúc.
LÝ ĐỢI (thực hiện)
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.