Đăng ngày:
Giáo sư Didier Sicard của trường đại học Sorbonne, chuyên gia về bệnh
truyền nhiễm, khi trả lời đài France Culture đã nhận định, mọi nghiên
cứu đang tập trung vào việc tìm kiếm vác-xin, nhưng bỏ quên nguyên nhân
từ loài vật của nạn dịch virus corona xuất phát từ Vũ Hán. Ông đòi mở
tòa án quốc tế về dịch tễ, trong bối cảnh trên thế giới đã có trên
73.000 nạn nhân thiệt mạng vì đại dịch, và riêng tại Pháp có 9.000 người
tử vong.
France Culture : Ông muốn quay lại với nguồn gốc của đại dịch corona ?
GS Sicard : Điểm
xuất phát của đại dịch này là một ngôi chợ ở Vũ Hán, tại đó chen chúc
đủ loại thú hoang : rắn, dơi, tê tê…nhốt trong những lồng tre. Tại Trung
Quốc, những con thú này được mua để ăn Tết Canh Tý. Chúng khá đắt, và
đây là món ăn rất được ưa thích.
Tại chợ này, thú hoang bị người bán tóm lấy, làm thịt trong lúc thân mình chúng ướt nhẹp nước tiểu, hàng ngàn con ve và muỗi bu đầy những con vật đáng thương này. Trong điều kiện như thế, chỉ cần vài con thú bị nhiễm virus là vô số con khác bị lây trong vài ngày. Có thể một người bán bị thương hay đụng vào nước tiểu nhiễm trùng, trước khi quẹt lên mặt. Thế là xong !
Điều khiến tôi luôn choáng váng là sự thờ ơ trước sự khởi đầu của nạn
dịch. Cứ như là xã hội chỉ chú trọng đến đoạn cuối : vác-xin, chữa trị,
hồi sức tích cực…Nhưng để cho những tai họa như thế không tái diễn, xác
định điểm xuất phát là vô cùng quan trọng. Thế mà người ta vô tình đến
không ngờ.
Sự dửng dưng trước việc mua bán động vật hoang dã trên
thế giới là thảm kịch. Nghe nói các thị trường này mang lại lợi nhuận
cũng như thị trường ma túy. Ở Mêhicô, việc buôn lậu phổ biến đến nỗi hải
quan thậm chí phát hiện những con tê tê giấu trong vali…
Tuy vậy đây không phải là lần đầu mà thú vật là nguyên nhân của các cuộc khủng hoảng dịch tễ ?
Lâu nay thú vật vẫn là nguồn gốc của đa
số cuộc khủng hoảng dịch tễ : SIDA, cúm gà H5N1, Ebola. Các chứng bệnh
này luôn đến từ nguồn dự trữ virus trong súc vật, và hầu như ít ai để ý
đến. Tương tự với bệnh sốt xuất huyết. Tôi có quan hệ rất chặt với Lào.
Trong mùa khô, cần phải diệt trừ ấu trùng trước khi chúng trở thành
muỗi, nhưng Viện Pasteur ở Lào vẫn kêu gào vô ích.
Cũng giống như
công việc phải làm với loài dơi. Bản thân loài này mang trên mình khoảng
30 loại virus corona ! Cần phải nghiên cứu kỹ loài vật này. Đương nhiên
là không dễ dàng : phải đi vào những hang động, trang bị bảo hộ kỹ
lưỡng, bắt những con rắn độc, tê tê, kiến, xem xét những loại virus
chúng đang mang trên mình. Đó là những công việc vô vị, không được các
phòng thí nghiệm quan tâm. Các nhà nghiên cứu nói : « Chúng tôi thà
làm việc trong phòng thí nghiệm phân tử với trang bị như phi hành gia.
Đi vào rừng rậm mang các loài muỗi về thật nguy hiểm ».
Bên
cạnh đó, những nạn dịch này sẽ còn tái diễn nhiều lần trong những năm
tới, nếu không cấm hẳn việc mua bán động vật hoang dã. Phải coi đó là
tội phạm như bán ma túy, phải bỏ tù. Tôi cũng nghĩ đến việc nuôi công
nghiệp gà, heo như ở Trung Quốc. Mỗi năm lại có những dịch cúm mới từ
gia cầm ; tập trung đại trà những con vật theo kiểu đó là không nghiêm
túc. Quốc tế phải tập trung nỗ lực tìm ra nguyên nhân nạn dịch.
Loại nghiên cứu nào cần phải tiến hành ?
Cần
phải cố vẽ lại con đường lây nhiễm khiến loài dơi chứa chấp virus
corona từ hàng triệu năm qua và gieo rắc đi các nơi. Chúng cũng lây
nhiễm sang những con thú khác. Rắn và đặc biệt là rắn độc rất mê ăn xác
dơi, cũng như dơi con bị rơi xuống đất là bị rắn nuốt ngay – có thể rắn
là vật chủ trung gian cho virus. Hơn nữa trong những hang động có cả
những đám mây ve, muỗi, cần phải xem loài côn trùng nào có thể lan
truyền virus.
Một giả thuyết khác là khi dơi bay đi ăn đêm, chúng
rất thích những cây thuộc họ thu hải đường. Dơi có phản xạ tự nhiên là
tiểu tiện khi nuốt thức ăn, như vậy chúng làm nhiễm độc trái cây và cả
cầy hương vốn thích cùng một thứ trái. Kiến cũng tham gia bữa tiệc, và
đến lượt tê tê – mà thức ăn khoái khẩu nhất là loài kiến – ăn vào cũng
bị nhiễm virus.
Đó là cả một chuỗi lây nhiễm cần nghiên cứu. Kho
trữ virus nguy hiểm nhất có lẽ là loài rắn, vì chúng thường xuyên ăn
thịt dơi vốn chứa sẵn virus corona. Như vậy rắn luôn có chứa virus, vì
vậy cần phải kiểm tra. Các nhà nghiên cứu phải đi bắt dơi, và tương tự
với loài kiến, cầy hương, tê tê, cố gắng hiểu được chúng dung dưỡng
virus trong người như thế nào. Đó là một công việc nhạt nhẽo như lại là
chủ yếu.
Còn về người dân địa phương có tiếp xúc với loài dơi ?
Điều
gây ấn tượng nơi tôi là rừng nguyên sinh tại Lào đang lùi dần, vì người
Trung Quốc xây dựng các nhà ga và tuyến đường xe lửa. Những chuyến xe
này chạy qua rừng rậm mà không có biện pháp bảo hộ y tế nào, có thể trở
thành vec-tơ cho các loại bệnh từ ký sinh trùng và virus, đưa chúng đi
xuyên qua Trung Quốc, Lào, Thái Lan, Malaysia và cả Singapore. Con đường
tơ lụa mới mà Trung Quốc muốn xây dựng có thể trở thành con đường lây
nhiễm các loại bệnh trầm trọng.
Trên thực địa, những hang động
ngày càng khó vào. Con người có xu hướng ngày càng tiến gần nơi cư ngụ
của loài dơi, chúng trở thành loại thực phẩm rất được ưa chuộng. Người
ta cũng lập vườn cây ăn trái rất gần những hang động này, vì cây rừng bị
đốn hạ. Cư dân có cảm giác lấn được đất, lập ra các vùng trồng trọt sát
bên khu dự trữ virus vô cùng nguy hiểm.
Theo giáo sư, như vậy chưa có đầy đủ những nghiên cứu nghiêm túc về khả năng dơi mang trong mình nhiều loại virus corona ?
Chúng
tôi đã sững sờ khi bộ Ngoại Giao Pháp hồi tháng 11/2019 đã không còn
cấp cho Viện Pasteur ở Lào một nhà vi trùng học nào. Vai trò của cơ quan
nằm cách biên giới Trung Quốc vài trăm cây số này là nghiên cứu và đào
tạo các chuyên gia tại chỗ về dịch tễ học đối với những loại virus hiện
có như chikungunya, sốt xuất huyết và nay là virus corona. Một cơ sở
nghiên cứu khoa học ở một xứ nhiệt đới xa xôi, nhưng với phòng thí
nghiệm an toàn tuyệt đối, sát cạnh nơi xảy ra dịch bệnh, nhưng phương
tiện nghiên cứu hiện đại.
Tuy nhiên, những viện như vậy có rất ít
ngân sách và khó tuyển được người. Đa số các nhà nghiên cứu thích làm
việc ở Viện Pasteur Paris hay phòng thí nghiệm của Sanofi hơn. Nhưng nhà
bác học Louis Pasteur không chỉ ngồi trong phòng, mà ông đã ra gặp nông
dân trên những cánh đồng nho, thăm những người chăn cừu. Cũng như
Alexandre Yersin luôn có mặt trên thực địa ở Việt Nam, nơi ông phát hiện
vi khuẩn dịch hạch.
Như vậy việc nghiên cứu dịch tễ về các loài
vật trung chuyển virus chưa xứng với tầm quan trọng của vấn đề, chỉ
chiếm khoảng 1% các công trình. Bởi vì những gì khiến các ứng viên giải
Nobel mơ ước là khám phá một con virus mới, chứ không phải lần tìm chuỗi
lây nhiễm. Thế nhưng những phát hiện quan trọng về bệnh nhiễm như ký
sinh trùng sốt rét chẳng hạn, chính là do một người Pháp, bác sĩ quân y
Alphonse Laveran, tìm ra trên thực địa ở Tunisie.
Ông có những ví dụ khác để chứng tỏ việc nghiên cứu trên loài vật là quan trọng ?
Bệnh
dịch hạch là một ví dụ thú vị. Chuột là kho trữ vi khuẩn dịch hạch. Có
những đàn chuột làm lây lan vi khuẩn này, còn bản thân chúng vẫn vô sự,
và cũng có những đàn nhạy cảm hơn. Chỉ cần một ngày nào đó, vài con
chuột loại nhạy cảm gặp chuột kháng khuẩn, bị nhiễm độc và chết. Lúc đó
những con rệp sống bằng máu của chuột sẽ quay sang cắn người.
Tại
những nơi bệnh dịch hạch còn hoành hành như California, Madagascar,
Iran, Trung Quốc, khi thấy hiện tượng hàng trăm con chuột chết là phải
can thiệp, vì lúc đó rệp sẽ quay sang loài người, rất nguy hiểm.
May
thay, dịch hạch là một chứng bệnh đã thuộc về quá khứ, nay chỉ còn
4.000 hay 5.000 ca trên thế giới, và thuốc kháng sinh rất hiệu quả.
Nhưng đó là một ví dụ cho thấy nguyên nhân từ loài vật là cơ bản, cần
phải tìm hiểu kỹ và có chính sách dự phòng. Ngày nay, tiếp tục buôn bán
động vật hoang dã là điên rồ.
Thật ra việc mua bán động vật hoang dã đã bị cấm, và còn có công ước quốc tế về vấn đề này…
Vâng,
nhưng tại Trung Quốc, công ước này không được tôn trọng. Cần phải thành
lập một loại tòa án quốc tế về y tế. Nếu chỉ đòi hỏi từng quốc gia sẽ
chẳng thay đổi được gì. Ngay từ đầu Bắc Kinh đã gây áp lực lên Tổ chức Y
tế Thế giới (WHO) để tổ chức này không tuyên bố đại dịch : Trung Quốc
đóng góp tài chính rất nhiều cho WHO.
Thế nên điều quan trọng là
phải có một tòa án y tế quốc tế hoàn toàn độc lập, như tòa án quốc tế về
tội ác chiến tranh, với các thanh tra độc lập có thể kiểm tra được
những gì diễn ra tại chỗ.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.