Một đơn vị pháo của Việt Nam chống trả quân xâm lược Trung Quốc trên biên giới ở Lạng Sơn hôm 23/2/1979. |
Đọc cái “tút” của GS-TS Trần Ngọc Vương từ
Đại học Quốc gia nhân ngày tập đoàn lãnh đạo Bắc Kinh phát động cuộc chiến
tranh xâm lược Việt Nam 41 năm trước đây, thú thật người viết bài này không khỏi
giật mình. Nói chuyện điện thoại với Giáo sư xong, viết bài này, như thắp một
nén tâm hương, tưởng niệm gần 100.000 chiến sĩ và đồng bào ta đã bỏ mình trong
hai cuộc chiến tranh biên giới bảo vệ Tổ quốc từng bị lãng quên một cách nhẫn
tâm và chóng vánh.
Con số 100.000 chiến sĩ và đồng bào ta hy
sinh là lấy từ Tuyên bố của Câu Lạc Bộ Lê Hiếu Đằng. Tuyên bố viết: “Lịch sử
rồi sẽ phải công khai sự thật số lượng người Việt Nam thương vong trong cuộc
chiến chống Trung Quốc xâm lược ở cuối thế kỷ 20, nhưng theo các nhà quan sát
phương Tây ước tính, thì quân và dân Việt Nam đã hy sinh trong hai cuộc chiến
tranh biên giới mà nguyên nhân là từ Trung Quốc cộng sản gây ra khoảng 100.000
người”.
Vâng, con số nói trên rõ ràng chưa được
thẩm định. Ở một đất nước mà phải sau 3 Nghị quyết của Bộ Chính trị, doanh nghiệp,
người dân và xã hội mới được phép “hội nhập toàn diện” với thế giới, thì việc
trích con số mất mát trong trận mạc chưa qua thẩm định rất có thể bị xử lý. Vẫn
biết chẳng hy vọng gì nhiều vào câu chữ trong EVFTA, tự do báo chí sẽ được bảo
đảm ở Việt Nam, để tính chuyện “chạy tội”. Đơn giản, phải chờ đến năm 2023, cam
kết trong Hiệp định ấy mới có hiệu lực pháp lý. Còn trên thực tế thì chưa biết
đến “Tết Công gô” nào mới có!
Nhưng chẳng nhẽ vì thế mà những nhà báo
có lương tri dịp này vẫn “mũ ni che tai”? Tác giả bài này còn nhớ, dạo nọ, nhân
tưởng niệm ngày 17/2, một trang mạng hàng đầu ở Việt Nam có đặt bài về cuộc chiến
tranh biên giới, nhưng lại đưa ra yêu cầu là không được đề cập đến hai từ
“Trung Quốc” trong bài viết. Thật là tột cùng của mọi sự phi lý! Đỉnh cao của mọi
sự vô liêm sỉ! Ngay cả 17/2 năm nay, một số tờ báo hầu như “không giám chấp”
hay do “húy kỵ” đặc biệt, vẫn tránh hai chữ “Trung Quốc” trong bài viết như
tránh dịch Covid-19. Lần này, cùng với GS. Trần Ngọc Vương, tác giả muốn đề xuất
với các “sử gia” đáng kính 5 “cái nhất” mà những người viết bộ sử “chính thống”
ấy không rõ vì lý do gì đã bị ép quên hay tự lãng quên.
Thứ nhất, đợt tấn công phủ đầu trên toàn
tuyến biên giới bắt đầu ngày 17/2/1979 thực chất là một cuộc chiến tranh xâm lược
có quy mô lớn nhất nhưng lại diễn ra trong một thời gian ngắn nhất, tính đến thời
điểm địch phải tuyên bố rút quân (ngày 5/3/1979). Theo nhà nghiên cứu Lịch sử
Lê Mã Lương, đấy thực sự là cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại nhất trong lịch sử
dân tộc. Chưa bao giờ chúng ta phải đối phó với một đội quân xâm lược nhung
nhúc như thế! Địch tung ra một lực lượng quân sự 600.000 lính, cùng các phương
tiện chiến tranh hiện đại, tàn phá 6 tỉnh biên giới phía Bắc trong gần một
tháng. Tuy nhiên, chúng chỉ tiến sâu vào được đất ta không quá 50km. Khác với
các triều đại trước đây, mỗi lần đánh ta, đa phần quân Tàu vào tận kinh đô. Ấy
vậy mà, các sử gia chính thống chỉ chép về chiến công hiển hách ấy có 290 dòng
trên tổng số 103.000 dòng về các sự kiện qua 70 năm trong bộ sử chính. Số chữ về
cuộc chiến chiếm chưa đầy 0,003% toàn bộ dung lượng về các sự kiện từ 1930 đến
2000. Mỉa mai thay, các “sử nô” đã viết về cuộc chiến tranh bi thảm ấy bằng những
con chữ vô hồn nhất, với nguỵ biện để bảo đảm trung tính và khách quan, vì chưa
“thương lượng” xong với các “sử gia bạn” (!?)
Thứ hai, từ đòn đánh bất ngờ ấy, một cuộc
chiến tranh đẫm máu nhất đã diễn ra, như tài liệu từng tổng kết. Nhưng sử
“chính thống” chép quá sơ lược, thậm chí hầu như không viết gì về cuộc chiến từ
1984 đến 1989, nên rất nhiều người Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ, vẫn không biết
gì về mức độ ác liệt của nó. Trên thực tế, chỉ riêng tại Vị Xuyên, Hà Tuyên
giai đoạn 1984-1989, Trung Quốc chết 15.178 quân, bị thương 17.757 tên. Ở khu vực
này, có chỗ ta và địch giằng co nhau từng mét đất biên cương. Việt Nam đã tổn
thất 4.000 (có nguồn ghi 5.000) sĩ quan, chiến sĩ và hơn 9.000 bị thương. Chỉ một
đêm 12/7/1984 mở màn chiến dịch tái chiếm các điểm cao, quân khu II thiệt hại
hơn 600 cán bộ chiến sĩ. Có nguồn ghi ngày đó, trên các điểm cao ấy, các sư của
ta “mất” ít nhất 1200 người.
Thứ ba, cuộc chiến đẫm máu nói trên lại
cũng là một cuộc chiến dai dẳng nhất (kéo dài chục năm có lẻ) trong lịch sử cận
đại Việt Nam. Như tuyên bố của CLB Lê Hiếu Đằng, nếu định nghĩa chiến tranh xâm
lược là một quốc gia đưa quân đi giết người của đối phương để chiếm lãnh thổ,
thì cuộc chiến Trung Quốc xâm lược Việt Nam vẫn chưa kết thúc. Trung Quốc từng
xâm lăng, bắn giết người Việt Nam để chiếm Hoàng Sa của Việt Nam ngày
19/1/1974, tiếp đó dùng tập đoàn Polpot xâm lược Tây Nam – Việt Nam, đặc biệt
cuộc tấn công 6 tỉnh biên giới phía Bắc từ 17/2/1979 đến 1989, vụ thảm sát binh
sĩ, sĩ quan Việt Nam để chiếm Gạc Ma và một số đảo đá thuộc Trường Sa ngày
14/3/1988, cho đến nay, Trung Quốc vẫn đang chiếm giữ và xây các căn cứ quân sự
trên đó.
Thứ tư, trong thời gian chiến tranh Trung
– Việt 10 năm có lẻ ấy, Trung Quốc đã vi phạm luật tù binh thô bạo nhất và đối
xử dã man nhất với thường dân. Quân Trung Quốc đã thảm sát hàng ngàn tù binh, đặc
biệt là 64 cán bộ chiến sĩ công binh Việt Nam ra xây đảo Gạc Ma ngày 14/3/1988,
cùng với 2 tàu vận tải vĩnh viễn nằm sâu dưới lòng Biển Đông. Trung Quốc đã chiếm
đảo Gạc Ma và nhiều đảo đá khác thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam cho đến
ngày nay. Trên biên giới, lính Trung Quốc đã thảm sát dã man hàng ngàn thường
dân, đặc biệt ở Tổng Chúp, đã giết 43 phụ nữ, trẻ em rồi quăng xuống giếng ở Tổng
Chúp, xã Hưng Đạo, thành phố Cao Bằng, tháng 2/1979.
Thứ năm, một cái nhất nữa không thể không
nhắc đến: Chưa có một cuộc chiến tranh nào trong lịch sử Việt Nam được cả chính
quyền lẫn các sử quan “lãng quên nhanh nhất” và “bỏ chạy một cách kỹ lưỡng nhất”
(từ của GS. Trần Ngọc Vương). Bộ lịch sử 15 tập, dày hơn 10.000 trang, với khoảng
290.000 dòng, trong đó dành cả chục ngàn dòng về cuộc chiến ý thức hệ từ 1954 đến
1975 – cuộc chiến mà Trung Quốc đã “tận tình giúp” để ta “đánh Mỹ đến người Việt
Nam cuối cùng” – trong khi đó chỉ chép vẻn vẹn có mười một dòng về cuộc chiến
chống Trung Quốc xâm lược. Sau hơn 4 thập kỷ, người ta cố tình tung hoả mù lên
tính chính danh của cuộc chiến. Không cho phép gọi kẻ xâm lược là địch, các chiến
sĩ ta hy sinh, khó khăn lắm mới được vinh danh là liệt sĩ. Chứ không phải chết
ngày hôm trước thì ngay hôm sau đã được truy tặng “Huân chương Chiến công hạng
nhất”. Quả là một kỷ lục về sự “nhập nhằng địch – ta!”
Từ những thiện nghĩ trên đây (Thật ra có
thể liệt kê thêm một số bất cập khác), có thể thấy cuộc chiến bảo vệ tự do độc
lập, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam cho đến hôm nay vẫn chưa kết thúc. Kẻ thù của
ta không ai khác chính là kẻ chiếm Hoàng Sa của Việt Nam 19/1/1974, kẻ chủ mưu
gây ra cuộc chiến đẫm máu hơn 43 năm trước (1977 – 1989) ở biên giới Tây Nam và
41 năm trước (1979 – 1989) ở 6 tỉnh biên giới phía Bắc. Ngày nay, kẻ thù ấy vẫn
ngang nhiên bám vào đường “lưỡi bò” để đòi chiếm 80% Biển Đông, cho dù Toà Trọng
tài của Liên hiệp quốc đã hoàn toàn bác bỏ.
Đúng như cảnh báo của CLB Lê Hiếu Đằng, với
chiến lược “vành đai con đường” Trung Quốc đã/đang bành trướng lãnh thổ, xâm phạm
biển đảo và thềm lục địa Việt Nam, không để Việt Nam hợp tác với các nước khác
khai thác dầu khí ở khu mỏ Cá Rồng Đỏ, Bãi Tư Chính. Kẻ thù đó ngày nay với “sức
mạnh mềm” kinh tế, văn hóa, chính trị… đã/đang lôi kéo được nhiều người mang
dòng máu Việt Nam nhưng vì cơ hội chính trị, tham lam quyền lực và vật chất, kể
cả một số người mang danh trí thức cũng bị mờ mắt và lú lẫn, đã can tâm làm tay
sai cho ngoại bang./.
TS ĐINH HOÀNG THẮNG (Bài đăng trên RFA
ngày 17/02/2020)
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.