Bài viết rất mạnh dạn của Infonet, mô
tả khách quan các hoạt động khẳng định chủ quyền của chính phủ Việt Nam Cộng
Hòa và sự hy sinh quả cảm của các chiến sĩ VNCH (mà lâu nay bị gọi là « ngụy »)
trong trận Hải chiến Hoàng Sa năm 1974 với quân xâm lược Trung Quốc.
(Infonet 18/01/2019) Sau cuộc gặp lịch sử giữa Mao Trạch Đông với Nixon
vào đầu năm 1972, và sự kiện Mỹ rút ra khỏi Việt Nam sau Hiệp định Paris đầu
năm 1973, Bắc Kinh đã thấy trước một khả năng mới: Họ có thể loại trừ khả năng
can thiệp của Hải quân Mỹ nếu cưỡng chiếm các hòn đảo do Việt Nam Cộng Hòa quản
lý.
Những bước chuẩn bị dài lâu
Cách
đây vừa tròn 45 năm, ngày 19/1/1974, Hải quân Trung Quốc đã có trận đấu súng
chóng vánh với Hải quân Việt Nam Cộng Hòa để rồi sau đó chính thức chiếm đóng
hoàn toàn quần đảo Hoàng Sa một cách phi pháp. Tuy nhiên, cho đến nay, Trung
Quốc vẫn không nhận được bất kỳ sự công nhận nào của cộng đồng quốc tế đối với
vấn đề chủ quyền của quần đảo này. Như vậy, Hoàng Sa vẫn là vùng lãnh thổ đang
tranh chấp.
Cơ sở hành chính trên đảo Hoàng Sa. Ảnh: tư liệu |
Là
quốc gia cùng ký hiệp định Genève năm 1954, Trung Quốc hiểu hơn ai hết Hoàng Sa
và Trường Sa hoàn toàn thuộc về Việt Nam, được thế giới công nhận và được giao
cho chính quyền miền Nam Việt Nam quản lý.
Khi
thành lập 1949, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa kiểm soát rất ít trong số 4 quần
đảo, bãi ngầm tại Biển Đông, cũng như không kiểm soát được khu vực đảo Đài
Loan. Trung Quốc lúc này đã phải đối đầu với các thách thức, chẳng hạn từ chính
quyền Quốc Dân Đảng với sự hỗ trợ của Hoa Kỳ, cũng như trên các đảo ngoài khơi
khác tại khu vực Biển Đông và Biển Hoa Đông.
Quần
đảo Hoàng Sa gồm hai nhóm đảo chính, nhóm Nguyệt Thiềm (Crescen) nằm ở phía Tây
Nam quần đảo, nhóm An Vĩnh (Amphitrite) nằm ở phía Đông Bắc. Trước đó, quân đội
Pháp đã chiếm đảo Hoàng Sa (Pattle) thuộc nhóm Nguyệt Thiềm (Crescen).
Năm
1951, Trung Quốc đã chính thức đưa ra yêu sách về chủ quyền của họ đối với hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nhưng bị nhiều quốc gia khác phản đối.
Ngày 1/6/1956, ngoại trưởng chính quyền Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) Vũ
Văn Mẫu tuyên bố tái khẳng định chủ quyền của Việt Nam với Hoàng Sa và Trường
Sa. Vài ngày sau, nhà nước Cộng hòa Pháp cũng lên tiếng xác nhận.
Ngày 22/8/1956, hải lục quân VNCH đổ bộ lên đảo chính của Hoàng Sa,
dựng bia, kéo cờ. Trong cùng ngày, lực lượng hải quân tỏa ra đổ bộ lên các hòn
đảo chính thuộc Trường Sa, dựng các cột đá chủ quyền.
Tháng
10/1956, hải quân Đài Loan chiếm đảo Ba Bình (Itu Aba). Tranh thủ cơ hội, Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa lập tức nhảy vào chiếm đảo Phú Lâm.
Hoàn
cảnh lịch sử phức tạp lúc này tạo ra những thách thức vô cùng lớn với chủ quyền
của Việt Nam trên hai quần đảo. Cuộc chiến tranh Lạnh đang bước vào thời kỳ gay
cấn, căng thẳng đã ít nhiều chi phối đến thực thi chủ quyền của Việt Nam với
hai quần đảo. Trung Quốc đã triệt để tận dụng thời khắc đó để trục lợi và lên
kế hoạch xâm chiếm.
Chính quyền VNCH đã liên tục khẳng định chủ quyền, phản đối các hành động chiếm đóng trái phép của
nước ngoài trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tuy nhiên, Trung Quốc ngày càng
táo bạo và bất chấp lẽ phải, luật pháp quốc tế để sử dụng vũ lực nhằm xâm chiếm
và kiểm soát hoàn toàn quần đảo này.
Trung
Quốc đã thực hiện việc sử dụng vũ lực vào một bối cảnh khiến vị trí của họ
trong tranh chấp đã bị suy giảm khi: i) Quân đội Việt
Nam Cộng Hòa đã tích cực mở rộng sự có mặt trên Hoàng Sa; ii) và các lợi
ích ngày càng thấy rõ của biển khơi, đặc biệt là tài nguyên dầu mỏ, khi thế
giới đang bước vào cuộc khủng hoảng dầu mỏ những năm 1970.
Trung
Quốc, khi nhìn thấy những lợi ích của các vùng biển này, đã quyết định phải
kiểm soát được tất cả các đảo thuộc Hoàng Sa, vì trước đó, khoảng giữa những
năm 1950, các đoàn tàu thương mại của Trung Quốc đã buộc phải đi qua vùng biển
cạnh khu vực nhóm đảo Nguyệt Thiềm (Crescen).
Tuy
Việt Nam Cộng Hòa không tỏ ra có hành động đe dọa nào đối với Trung Quốc tại
nhóm đảo An Vĩnh (Amphitrite), với ý định mỗi bên sẽ kiểm soát các khu vực biển
thuộc xung quanh nhóm đảo mà họ đang kiểm soát, nhưng các hành động này của
Việt Nam Cộng Hòa đã làm suy giảm lợi thế của Trung Quốc. Và, vì thế, Trung
Quốc đã sử dụng sức mạnh quân sự như một biện pháp để phục hồi lại vị thế lợi
ích của mình tại đây.
Vào
đầu những năm 1970, các lợi ích từ tài nguyên biển trên Biển Đông trở nên rất
quan trọng, đặc biệt tại các khu vực mà các bên tranh chấp.
Năm
1970, Philippines hoàn thành việc khảo sát địa chấn tại các vùng nước xung
quanh Trường Sa, và năm 1971 bắt đầu tiến hành khoan thăm dò. Trong khi đó,
Việt Nam Cộng Hòa cũng bắt đầu việc khai thác nguồn dầu khí ngoài khơi, và
tháng 7/1973 Sài Gòn đã ký kết 8 hợp đồng khoan thăm dò tại những nơi được cho
là có nhiều dầu mỏ trên Biển Đông. Tháng 1 và tháng 3/1973, Việt Nam Cộng Hòa
cũng đã cho tiến hành khảo sát địa chấn tại khu vực xung quanh nhóm đảo Nguyệt
Thiềm.
Còn
tháng 12/1973, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng công bố cho thấy triển vọng của
các giếng dầu ở ngoài khơi Vịnh Bắc Bộ, phía bắc của quần đảo Hoàng Sa.
Với
những giá trị kinh tế của các nhóm đảo ngoài khơi ngày càng gia tăng, các quốc
gia khác cũng bắt đầu giành lấy những cấu trúc tại Hoàng Sa, Trường Sa, ở những
nơi mà Trung Quốc hoàn toàn không có sự hiện diện nào. Để củng cố cho các yêu
sách của mình, Philippines đã chiếm 5 đảo và đá tại Trường Sa trong khoảng thời
gian từ năm 1970 đến năm 1971. Đây là lần đầu tiên Philippines có sự hiện diện
tại vùng lãnh thổ tranh chấp này.
Tháng 9/1973, Việt Nam Cộng Hòa tuyên bố sáp nhập quần đảo Trường
Sa vào địa bàn tỉnh Phước Tuy. Các hành
động của các quốc gia này chỉ trong chưa đầy 3 năm đã đẩy Trung Quốc vào thế
bất lợi trong tranh chấp này.
Để
đáp lại những hành động đó, Trung Quốc quyết định mở rộng sự hiện diện của mình
trên những hòn đảo ngoài khơi biển Đông, nơi có ít sự trợ giúp của các lực
lượng hải quân của các quốc gia khác.
Đặc
biệt, sau cuộc gặp lịch sử giữa Mao Trạch Đông với Nixon vào đầu năm 1972, và
sự kiện Mỹ rút ra khỏi Việt Nam sau Hiệp định Paris đầu năm 1973, Bắc Kinh đã
thấy trước một khả năng mới: Họ có thể loại trừ khả năng can thiệp của Hải quân
Mỹ nếu cưỡng chiếm các hòn đảo thuộc do Việt Nam Cộng Hòa quản lý.
Ảnh tư liệu. |
Trung
Quốc đã sử dụng các ngư dân để gia tăng sự hiện diện của họ trên vùng biển nhóm
Nguyệt Thiềm (Crescen) từ năm 1973. Ngày 9/1/1974, các ngư dân Trung Quốc từ
đảo Hữu Nhật (Robert) áp sát tới gần đảo Hoàng Sa (Pattle) - nơi mà Việt Nam
Cộng Hòa đang đóng quân trên đó. Ngày 11/1, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc
công khai thách thức Tuyên bố tháng 9/1973 của Việt Nam Cộng Hòa.
Giữa
tháng 1/1974, các tình huống đối đầu trở nên căng thẳng hơn. Tiếp theo các
tuyên bố của Bắc Kinh, Sài Gòn gửi thêm một số tàu chiến tới khu vực nhóm đảo
Nguyệt Thiềm (Crescen), trục xuất các ngư dân Trung Quốc ra khỏi khu vực này.
Từ đó đã dẫn tới sự kiện ngày 19-20/1/1974, mà sau đó Trung Quốc đã giành được
quyền kiểm soát trên toàn bộ quần đảo Hoàng Sa bằng sức mạnh quân sự của mình.
Hải chiến Hoàng Sa ngày 19/1/1974
Trước
khi tiếng súng bắt đầu nổ ra tại Hoàng Sa vào lúc 10h25', ngày 19/1/1975, ngày 16/1/1974, Chính phủ VNCH đã tuyên cáo
rộng rãi với thế giới bác bỏ những luận cứ vô lý của Trung Quốc và đưa ra những
bằng chứng lịch sử, pháp lý được thế giới công nhận của Việt Nam với hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Sau
khi phát hiện sự có mặt của quân đội Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại vùng Hoàng
Sa với cờ dựng trên các đảo Quang Anh (Money), Hữu Nhật (Robert), lực lượng quân đội VNCH được tăng cường với khu trục hạm
Trần Khánh Dư, tuần dương hạm Trần Bình Trọng, hộ tống hạm Nhật Tảo. Lực lượng
tăng cường của VNCH có các toán biệt hải được lệnh đổ bộ đến các đảo hạ cờ của
quân đội Trung Quốc. Vài vụ xô xát đã xảy ra, súng đã nổ trên đảo Quang
Hòa (Duncan) và một đảo khác.
Lực
lượng hai bên bắt đầu chuẩn bị, các chiến hạm cách nhau chừng 200m. Cuộc hải
chiến bắt đầu diễn ra vào lúc 10h25' ngày 19/1/1974. Một chiến hạm của TQ bị
bốc cháy. Các chiến hạm của TQ mang số 281, 182 dồn sức đánh trả khiến chiến hạm Nhật Tảo bị trúng đạn trên đài chỉ huy và hầm máy
chính, hạm trưởng Ngụy Văn Thà hy sinh.
Sau
hơn 1 giờ giao tranh, hai chiến hạm của TQ chìm, 2 chiếc khác bị bắn cháy. Bên
lực lượng VNCH ngoài hộ tống hạm Nhật Tảo bị chìm, còn có một số chiến hạm bị
thương tổn, trong đó có một số binh sĩ bị bắt và mất tích.
Lầu
Năm Góc khi đó được chính quyền Sài Gòn yêu cầu can thiệp, nhưng quyết định
đứng ngoài cuộc xung đột. Trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ, Arthur Hummel cho
chính quyền Sài Gòn biết Mỹ không quan tâm đến vấn đề Hoàng Sa.
Ngày
20/1/1974, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam (CHMNVN) đã
ra bản Tuyên bố phản đối hành động này của phía Trung Quốc. Ngày 26/1/1974,
Chính phủ Cách mạng lâm thời CHMNVN tuyên bố lập trường 3 điểm về việc giải
quyết các vấn đề tranh chấp lãnh thổ. Ngày 14/2/1974, Chính phủ Cách mạng lâm
thời CHMNVN tuyên bố khẳng định quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là một
bộ phận của lãnh thổ Việt Nam.
Nếu
như Mỹ là đồng minh của Chính phủ VNCH đã làm ngơ cho Trung Quốc đánh chiếm
Hoàng Sa thì Liên Xô lại phản đối. Ngày 27/1/1974, Báo Pravda (Sự thật) của
Đảng Cộng sản Liên Xô đã có bài xã luận lên án gay gắt hành vi xâm lược bằng vũ
lực của Trung Quốc và cảnh báo âm mưu bành trướng của Trung Quốc trên Biển Đông
và Đông Nam Á. Bài xã luận khẳng định: "Hành
động quân sự của Trung Quốc tại Hoàng Sa như một chủ trương bành trướng lãnh
thổ là đe dọa cho các quốc gia châu Á. Việc sử dụng vũ lực để giải quyết tranh
chấp đất đai, lãnh thổ là không thể nào
tha thứ".
Một
số nước Nam Á đã lên tiếng phản đối hành vi dùng vũ lực của Trung Quốc.
Tàu HQ4 của hải quân Việt Nam Cộng Hòa. |
Ngày 30/3/1974, đại biểu chính quyền VNCH khẳng định chủ quyền Việt
Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa tại Hội đồng Kinh tài Viễn Đông
họp tại Colombia. Ngày 14/2/1975, Bộ Ngoại giao chính quyền VNCH công bố Sách
Trắng về Hoàng Sa và Trường Sa.
Mặc
cho những sự phản đối này, Trung Quốc vẫn chiếm giữ trái phép toàn bộ Hoàng Sa
và tiếp tục phát triển cơ sở hạ tầng trên quần đảo cho đến nay. Nước Việt Nam
thống nhất sau năm 1975 luôn tuyên bố khẳng định rõ ràng chủ quyền đối với quần
đảo Hoàng Sa.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.