(NgườiViệt 02/11/2018) Nếu hai ông Donald Trump và Tập Cận Bình không
thỏa hiệp được với nhau, cuộc chiến tranh mậu dịch giữa hai nước có thể làm
kinh tế cả thế giới đi xuống trong năm tới. Cuộc suy thoái sẽ bắt đầu khi Trung
Cộng không thể ngăn quả bom nợ bùng nổ.
Tổng số
nợ trong kinh tế Trung Quốc đã lên gấp ba lần Tổng Sản Lượng Nội Địa (GDP). Số
nợ của tư nhân chiếm 18.6% GDP vào năm 2008 đã tăng lên thành 46.5% vào giữa
năm 2018. Những món nợ có cơ không thể trả được, nguy hiểm nhất, là do các
chính quyền địa phương, đã lên tới 163% GDP vào năm 2017.
Nhưng
một mối đe dọa lớn cho hệ thống tài chánh Trung Quốc là những món nợ vay của nước
ngoài và vay bằng đô la Mỹ, phải trả lãi và vốn cũng bằng đô la Mỹ.
Kể từ
năm 2008, khi kinh tế Mỹ và cả thế giới suy yếu, số trái khoán bằng đô la
(dollar-denominated bonds) của các công ty Trung Quốc đã tăng lên gấp bốn lần,
theo số liệu của Ngân Hàng Thanh Hóa Quốc Tế (BIS, Bank of International
Settlenmants) ở Thụy Sĩ!
Trung
Quốc không phải là quốc gia duy nhất đã tăng số nợ bằng đô la. Các nước đang
lên khác cũng đang bị dè nặng dưới thứ trái phiếu này, khi họ vay đô la trên thị
trường tài chánh quốc tế; số nợ đô la của Brazil, Mexico đã tăng gấp đôi, Nam
Phi và Indonesia đã vay thêm gấp ba, Chile và Argentina gấp bốn lần như Trung
Quốc.
Những
nước trên đây đều đang lo khó trả nợ khi Ngân Hàng Trung Ương Mỹ (Fed) tăng lãi
suất, và đồng đô la Mỹ tăng giá. Nếu đô la tiếp tục tăng giá, số đô la dùng để
trả tiền lãi và vốn sẽ đắt hơn khi các nước này dùng tiền bản xứ mua đô la Mỹ.
Khi lãi suất ở Mỹ tăng, muốn vay thêm đô la để trả nợ cũ sẽ phải chịu trả lãi
nhiều hơn; đó là một mối lo khác.
Nhưng
không phải chỉ có các nước mang nợ lo lắng, mà cả thế giới đều lo với họ. Vì hệ
thống tài chánh và kinh tế thế giới ngày nay đã liên hệ chặt chẽ với nhau, rút
dây là động rừng. Nền tài chánh thế giới, trong đó đô la Mỹ đóng vai trò chính,
đã trở thành một đại dương, tài chánh mỗi quốc gia là một khu biển nhỏ, nhưng
nước biển cùng lên hay cùng xuống với nhau. Khủng hoảng tài chánh và ngân hàng ở
một nước sẽ gây ảnh hưởng trên các nước khác. Đáng lo nhất vẫn là kinh tế Trung
Quốc; nếu họ chìm thì sẽ kéo cả thế giới xuống theo.
Trước
năm 1975, hệ thống tài chánh thế giới còn được kiểm soát chặt chẽ; ít xảy ra những
cuộc khủng hoảng ngân hàng. Sau đó, hệ thống ngân hàng các quốc gia được “cởi
trói” và đồng tiền lưu chuyển giữa các nước cũng dễ dàng hơn. Hiện tượng này
giúp kinh tế toàn cầu tăng trưởng, đặc biệt từ năm 1990, sau khi chế độ Cộng Sản
sụp đổ ở Châu Âu; nhưng từ đó mỗi năm trung bình có 13 nước lâm vào khủng hoảng
ngân hàng.
Khi hệ
thống tài chánh được toàn cầu hóa, đồng tiền vốn chạy nhanh giữa các quốc gia;
giữa các nước tiên tiến và các nước đang phát triển. Số tiền vay nợ “xuyên quốc
gia” vào năm 1998 là $9,000 tỉ, năm 2008 đã tăng lên thành $35,000 tỉ; hiện nay
đã xuống còn khoảng $30,000 tỉ. Chúng ta có thể thấy hiện tượng vay nợ xuyên quốc
gia này rõ nhất từ năm 2000.
Trong
thập niên đầu thiên niên kỷ, những nước bán nhiều, mua ít, “tiết kiệm” được nhiều
nhất là những nước xuất cảng dầu lửa, cùng với Trung Quốc, một nước xuất cảng
hàng giá rẻ nhờ trả lương công nhân rất thấp. Những đồng tiền thặng dư đó được
chuyển qua những nước tiên tiến, cho vay hoặc đầu tư. Dòng tiền tệ này đã đẩy
lãi suất ở Mỹ xuống thấp, và giá các loại tài sản lên, đặc biệt là trong thị
trường địa ốc. Nước Mỹ hưởng lợi nhiều nhất vì được vay với lãi suất rất rẻ;
nhưng chính sách kiểm soát dễ dãi đã đưa tới cuộc khủng hoảng địa ốc, sau đó lan
qua hệ thống tài chánh làm kinh tế suy thoái trong những năm 2007, 2008.
Sau cuộc
“đại suy thoái” này, dòng tiền tệ bắt đầu chảy ngược chiều, từ các nước tiên tiến
qua các nước đang phát triển, như Trung Quốc; vì phản ứng từ các nước Âu Mỹ.
Để đối
phó với cuộc khủng hoảng 2008, Ngân Hàng Trung Ương Mỹ và các nước Tây Âu đã giảm
lãi suất. Họ lại bơm thêm tiền ra cho công chúng dùng để kích thích kinh tế, bằng
cách mua trái phiếu quốc gia – nói cách khác là in tiền rồi cho chính phủ vay.
Khi lãi suất ở Mỹ và Tây Âu xuống, giới đầu tư quốc tế, trong đó có những nước
dư tiền, đưa tiền đi nơi khác tìm lợi suất cao hơn. Dòng đô la bắt đầu chạy qua
những nước “đang lên.” Vì thế, những món nợ ở Trung Quốc, Chile và Argentina
tăng nhanh như chúng ta đã thấy. Các xí nghiệp ở nhiều nước đang lên đi vay nợ,
vay bằng đô la Mỹ, đã tăng lên gấp bốn lần từ năm 2009.
Từ năm
2015, khi thấy kinh tế Mỹ đã đủ vững, Ngân Hàng Trung Ương Mỹ bắt đầu tăng lãi
suất, lật ngược chính sách lãi suất thấp trước đó. Đồng đô la Mỹ lên cao, tới
nay đã tăng giá trị thêm 25%. Như trên đã giải thích, đô la lên giá khiến các
nước vay nợ bằng đô la gặp khó khăn. Vay một đô la năm 2014 chẳng hạn, giờ muốn
có một đô la trả nợ thì phải mua với giá cao hơn 25%! Nhiều nước như Thổ Nhĩ Kỳ,
Argentina đã gặp nạn, và căn bệnh này rất dễ lan truyền qua các nước đang phát
triển khác, trong đó có Trung Quốc. Trong 30 năm qua, kinh tế những nước gọi là
đang phát triển đã tăng lên, từ tỉ lệ 36% năm 1989 nay lên tới 59% GDP của cả
thế giới. Cho nên nếu các nước này “lâm nạn” thì những nước nghèo hơn hay giầu
hơn cũng bị họa theo.
Tại
Trung Quốc, quả bom nợ phồng lên cùng với trào lưu đô la chạy sang các nước mới
phát triển. Năm 2009 tổng số nợ lớn bằng 175% GDP nay đã lên bằng 300% GDP.
Riêng với những món nợ bằng đô la Mỹ; năm 2009 hầu như chưa xí nghiệp nào đi
vay trong thị trường thế giới; nhưng đến nay số nợ đô la đã lên tới $450 tỉ, bằng
nửa số tiền mà Trung Cộng dùng ngoại tệ dự trữ đem cho chính phủ Mỹ vay.
Vay nợ
không phải là một vấn đề! Đối với các xí nghiệp hay với các quốc gia, đi vay
bao nhiêu cũng được nếu số tiền vay được dùng vào việc đầu tư sinh lợi, suất lợi
kiếm được cao hơn lãi suất phải trả. Lợi suất càng cao thì vay càng nhiều càng
tốt. Vấn đề của Trung Cộng là hầu hết các món nợ đều dùng cho những dự án không
sinh lời hoặc hoàn toàn thua lỗ.
Cộng Sản
Trung Quốc biết như vậy, và Tập Cận Bình đã bắt đầu “cải tổ” từ khi nhậm chức
năm 2012. Nhưng hai việc cải tổ rất khó khăn là làm sao hãm bớt không cho các
doanh nghiệp nhà nước yếu kém vay nợ và cắt số nợ của chính quyền các địa
phương. Cả hai kế hoạch đều bị luồn lách lảng tránh hoặc chống đối. Giữa lúc
đó, cuộc chiến tranh mậu dịch do ông Donald Trump gây ra khiến Tập Cận Bình lại
thêm mối lo mới: Ngành xuất cảng sẽ xuống, kéo theo những ngành khác. Để đối
phó, muốn giữ cho kinh tế không xuống nhanh quá, Tập Cận Bình lại phải thả lỏng
cho các xí nghiệp và chính quyền vay nợ thêm, miễn là vẫn còn giữ được công ăn
việc làm để kinh tế tiếp tục tăng trưởng trên 6% một năm.
Nhưng
muốn giữ mức tăng trưởng đó, phải nâng cao cả phía cung và phía cầu, mà điều
này không dễ dàng. Trước đây, chính quyền Trung Quốc đã “kích cung” bằng cách
xây dựng rất nhiều nhà máy, cao ốc, đường xe lửa, xa lộ, vân vân, bây giờ đã
xây quá thừa, nhiều nơi bỏ trống không dùng tới. Muốn nâng cao phần cung bây giờ
thì phải gia tăng năng suất với kỹ thuật tân tiến, và chuyển tài nguyên vào các
lãnh vực có năng suất cao hơn. Nhưng cho tới nay, kế hoạch đó chưa thực hiện được.
Tập Cận Bình vẫn phải thỏa hiệp, tiếp tục cho ngân hàng bơm tiền vô những xí
nghiệp quốc doanh không sinh lợi.
Nhưng
nếu Tập Cận Bình có thể “kích cung” theo hướng trên đây, nỗi khó khăn về phía cầu
sẽ tăng lên. Việc nâng cao năng suất bằng cách bỏ bớt các doanh nghiệp nhà nước
xưa nay chỉ ăn hại sẽ gây hậu quả trước mắt là công nhân trong các xí nghiệp đó
sẽ mất việc. Một số lớn người tiêu thụ bắt buộc phải thắt lưng buộc bụng. Trong
khi đó thì kế hoạch chuyển nền kinh tế từ xuất cảng sang tiêu thụ nội địa chưa
đạt được kết quả nào đáng kể. Hơn nữa, vì kế hoạch kích thích tiêu thụ này mà số
nợ của tư nhân đã tăng vọt lên, từ 18.6% GDP vào năm 2008 nay thành 46.5%, như
đã nói trên đây. Tăng lợi tức của người tiêu thụ cũng là một biện pháp kích cầu
tốt, nhưng từ năm 2016 đến nay tỉ lệ lợi tức của các gia đình so với Tổng Sản
Lượng Nội Địa (GDP) đã giảm chứ không tăng.
Tập Cận
Bình có thể cố giữ số hàng xuất cảng không cho rớt xuống nhanh quá, bằng cách hạ
thấp giá đồng nguyên của Trung Quốc so với đô la Mỹ. Nhưng làm như vậy sẽ càng
chọc giận Donald Trump, cuộc chiến tranh quan thuế sẽ tàn nhẫn hơn. Hơn nữa,
khi đồng nguyên xuống giá so với tiền Mỹ, những món nợ vay bằng đô la của các
doanh nghiệp Trung Quốc sẽ trở thành nặng nề hơn.
Không
ai cầu mong kinh tế Trung Quốc lâm nạn, vì tai họa sẽ lan truyền khắp thế giới,
kể cả nước Mỹ. Năm 1989, kinh tế Trung Quốc chỉ bằng 4% của GDP của thế giới,
bây giờ đã lên thành 19%. Nếu kinh tế Trung Quốc suy sụp thì những nước đang
bán hàng cho họ gặp nguy, những ngân hàng đang cho họ vay tiền cũng lâm nạn. Hậu
quả lan ra khiến hệ thống ngân hàng quốc tế cũng khó thoát nạn. Khi ngân hàng khắp
nơi phải giảm bớt số tiền cho vay thì kinh tế toàn cầu sẽ xuống theo.
Hai
ông Donald Trump và Tập Cận Bình sẽ được mọi người chung quanh nhắc nhở mối
nguy chung này trong lần gặp gỡ sắp tới.
NGÔ
NHÂN DỤNG
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.