"Đường làng quê tôi". Ảnh Hồng Trọng Mâu |
1
Hồi
tôi còn rất nhỏ, khi nắng chiều bắt đầu dịu thì bà chị cả của cha tôi mà tôi
gọi bằng cô, liền gọi tôi ra giẫy cỏ ở sân trước. Cỏ mọc nhanh lắm, vừa giẫy
xong chỗ này nó đã mọc lên chỗ khác, thành thử ngày nào cũng phải giẫy. Giẫy cỏ
vào những ngày hanh dễ, đất khô, chép mai đưa tới đâu sạch tới đó. Nhưng vào
đận mưa phùn liên miên, lúc đầu xuân hay trong mùa rươi, rễ cỏ gà đã dài lại
bám sâu, giũi một túm cỏ thì lôi cả vầng đất lên theo. Những ngày như thế cô
tôi phẩy tay, không giũi nữa.
Không
phải bà lười, không phải bà mệt, mà là bà tiếc đất. Bà lo còn mưa, đất bị trôi
đi. Ngay trong những ngày nắng ráo, khi giũi xong, bao giờ cô tôi cũng rũ từng
nhúm cỏ cho tới khi không còn đất bám mới thôi. Cỏ khô được xếp thành đống nhỏ
trong vườn rau sau nhà. Khi đốt, những đống cỏ ấy bốc lên một mùi ngai ngái,
rất quen thuộc. Những đống tro xám của chúng sau một trận mưa là thấm vào những
luống rau.
Cô
tôi bảo:
-
Ðất là của quý, cháu ạ. Không có đất rồi lấy gì mà trồng, lấy gì mà ăn? Cho nên mới phải
be bờ cho sân, cho vườn. Mưa nhiều, màu trôi đi hết, có mà ăn cám!
Không phải chỉ riêng cô tôi
quý đất. Không chỉ người làng tôi, người vùng tôi, mà người ở đâu trên đất nước
ta cũng vậy.
Nhà nông ở đồng bằng sông
Hồng là những người rất hiểu đất. Và yêu đất. Họ lo cho sức khoẻ của đất không
khác gì lo cho người. Sau khi thu hoạch, người ta không hối hả làm ngay vụ sau,
mà để cho đất được nghỉ ngơi rồi mới cày. Những tảng đất cày lộn được xếp chồng
lên nhau thành những bức tường dài, cao khoảng một mét, gọi là xếp ải. Ðến lúc
sắp cấy mới tháo nước vào, những bức tường nọ đổ sụp xuống làm thành đất mùn
cho những giẻ mạ non.
Giữa người và đất có tình có
nghĩa.
Đất không phải chỉ là những
mét vuông, những sào, những mẫu.
Đất
là máu, là thịt của con người. Là con người, phải biết yêu đất, bảo vệ đất.
2
Rừng
là nơi con người từ đó đi ra, là cội nguồn của sự sống, cũng không được tôn
trọng, bị coi là thứ chỉ để khai phá.
Rừng
bắt đầu bị xẻ thịt từ thời kháng chiến chống Pháp. Nhưng thôi, chuyện ấy không
kể, đó là chuyện vạn bất đắc dĩ, khi bộ đội thiếu gạo ăn, chỉ trông vào sắn.
Chiến
tranh qua rồi, di hại nạn phá rừng vẫn tồn tại.
Một
người bạn tôi được giao một đại đội đào binh làm nhiệm vụ vỡ hoang hai cánh
rừng gỗ tếch để trồng sắn. Thu hoạch xong vụ đầu tiên, anh toát mồ hôi: công
lao của bấy nhiêu con người cả năm trời chỉ đủ mua ba cây tếch, nhiều nhất là
ba cây rưỡi. Tôi hỏi anh đã báo cáo lên cấp trên cách anh tính toán chưa, anh
nói anh không dám. Người ta đã báo cáo lên cấp trên thành tích khai hoang rồi,
nói thế có mà chết.
Những
cái đầu đất phá rừng để lấy thành tích khai hoang chưa kịp chết thì lũ con buôn
đã thế chỗ. Chúng nhân danh phát triển kinh tế, đẩy mạnh xuất khẩu gỗ, đốn bất
cứ cây nào bán được. Chúng không biết rằng những người sơn tràng xưa chỉ dám hạ
những cây gỗ lưu niên không còn có thể lớn thêm.
Tôi
vốn không thích những con số thống kê. Chúng khô khan và chẳng bao giờ cho ta
một hình dung dù lờ mờ nhất về cái mà những con số nói tới. Chẳng hạn, có con
số cho biết diện tích rừng ngày nay ở nước ta so với 50 năm trước chỉ còn lối
25 phần trăm. Tôi đã nghĩ con số này được thổi phồng. Chỉ tới khi được nhìn tận
mắt những bản đồ rừng bị tàn phá, được xem phim quay từ vệ tinh tại trạm khí
tượng tỉnh Strassbourg (Pháp), tôi mới tin nó có thật.
Hồi
đầu cuộc kháng chiến chống Pháp chỉ qua bến Trung Hà là đã tới rừng, vượt qua
vùng bưởi Ðoan Hùng là đã gặp rừng nguyên sinh. Vậy mà nay lên tới tận Tuyên
Quang vẫn còn là trung du. Diện tích rừng so với bây giờ chắc chắn còn bị thu
hẹp nhiều hơn nữa. Và tốc độ tàn sát rừng chưa có dấu hiệu giảm. Hết rồi rừng
vàng, hết rồi biển bạc, hết luôn những trang tự sướng từng được viết nắn nót
trong sách giáo khoa.
Rừng
ăn đời ở kiếp với người, nuôi sống con người, đã bị con người khai thác đến
kiệt quệ.
Giờ
đây, nó hấp hối.
3
Đầu
Công nguyên, dân số toàn thế giới ước tính có khoảng 170 triệu người. Đến năm
2016, dân số thế giới đã là 7,4 tỉ người.
Người
đông lên, nhưng diện tích đất thì vẫn nguyên đấy.
Có
nhiều cơ hội tiếp xúc với họ, tôi hiểu được cách nghĩ của những người cầm quyền
thế hệ tôi. Trong quá khứ, họ đều là những chiến sĩ cách mạng đáng trọng, xuất
thân từ những tầng lớp xã hội khác nhau, nhưng không phải là những người uyên
bác. Cách mạng đặt họ vào những vị trí họ không bao giờ nghĩ tới là quản trị
một xã hội.
Ngồi
bàn giấy bóng lộn, trên đầu quạt trần quay vù vù, được chỉ đạo bằng một lý
thuyết mơ hồ học vội, họ không biết làm việc gì khác ngoài việc sản xuất các
nghị quyết. Khi thì “ưu tiên phát triển
công nghiệp nặng, chiếu cố thích đáng công nghiệp nhẹ”, khi thì ngược lại, “ưu tiên phát triển công nghiệp nhẹ, chú
trọng xây dựng nền móng công nghiệp nặng”… Những nghị quyết được đúc trong
một lò cái này na ná cái kia, trong đó những câu chữ sang trọng được các thư ký
chấp bút nhào lộn thành thạo như làm xiếc.
Cơn
mê công nghiệp hóa chiếm lĩnh toàn bộ ý nghĩ của nhà cầm quyền. Thảng hoặc có
nói tới nông nghiệp người ta thì cũng chỉ lớt phớt, những từ ngữ chính trị đều
hướng về chuyện cải tạo quan hệ sản xuất.
Lê
Duẩn, người được ca tụng có trí tuệ sáng như ”ngọn đèn 200 bu-gi” đã phát biểu tại Đại hội Đảng III, tháng
9/1960 như sau: “Công cuộc cải tạo xã hội
chủ nghĩa là nhằm cải tạo những quan hệ sản xuất không xã hội chủ nghĩa thành
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, trong đó mấu chốt là cải biến chế độ sở hữu
cá thể và chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất thành các hình
thức khác nhau của chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa, mở đường cho sức sản xuất
phát triển”(nguyên văn).
Người
nông dân với mảnh ruộng của mình được coi là chế độ sở hữu tư liệu không xã hội
chủ nghĩa, cần được nhanh chóng cải tạo thành sở hữu xã hội chủ nghĩa.
“Cải biến chế độ sở hữu cá thể và chế
độ sở hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất thành các hình thức khác nhau
của chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa”
của ngọn đèn sáng chói nọ đã đem lại kết quả thế nào, thì người không cần sáng
mắt cũng thấy. Để rồi sau những thất bại, những người bắt người khác phải làm
theo những sáng tạo của họ không một chút ngượng ngùng vỗ ngực bồm bộp khoe họ
đã tài tình và sáng suốt “cởi trói” cho
cái bị chính họ trói.
Trong
cải cách ruộng đất, Trường Chinh giảng giải: “Cải cách ruộng đất về cơ bản là một cuộc đấu tranh chính trị”. Thì
ra các “lãnh tụ” đâu có muốn sửa đổi tình trạng bất bình đẳng trong sở hữu đất
đai. Họ muốn cái khác kia. Cho nên chưa chia lại ruộng thì phải đấu tố cái đã.
Dưới
khẩu hiệu “Đánh đổ giai cấp địa chủ” là
cả một phong trào vu cáo để tàn sát những người đã ủng hộ Cách mạng Tháng Tám
trong chính quyền thôn xã, những người ngây thơ và cả tin rằng có cách mạng là
có bình đẳng giữa những đồng chí thề hy sinh tất cả vì độc lập, vì tự do. Cần
phải diệt cho bằng hết những kẻ bất mãn với tôn ti trật tự mới được du nhập từ
Trung Quốc vĩ đại - đó mới là mục đích của cải cách ruộng đất.
Có bao nhiêu người không tên tuổi đã mất mạng trong cuộc giết chóc
lớn lao nhất trong lịch sử?
4
Khẩu
hiệu: “Chính trị là thống soái” được
đặt ở hàng đầu trong thời gian dài. Các nhà khoa học, các chuyên gia được đưa
về nông thôn, vào các xưởng máy, không phải để nghiên cứu cái gì, mà để học tập
tinh thần lao động. Mao Trạch Đông đã dạy: “Trí
thức không bằng cục cứt”. Những người nắm quyền lực trong tay không mơ thấy
gì khác ngoài những nhà máy nhả khói lên trời và những ô tô chạy băng băng trên
“đường ta rộng thênh thang tám thước”
(thơ Tố Hữu).
Chúng
tôi được ăn no nê bo bo cùng với những nghị quyết không cho phép cãi lại về một
phương thức sản xuất tiên tiến, hứa hẹn một thiên đường mai sẽ có.
Đó
là chuyện đã xưa. Chỉ có thể tự an ủi rằng ít nhất thì cái “Chính trị là thống soái” được tuyên bố ra miệng cũng còn đỡ dơ dáy
hơn cái “Tiền là thống soái” không
nói ra sau này.
Những
nghiên cứu khoa học cho ta biết: Ở nước ta nhiệt độ trung bình trong năm từ
22ºC đến 27ºC (bây giờ cao hơn nhiều do hậu quả của nạn phá rừng, chặn sông,
lấp hồ). Hàng năm, có khoảng 100 ngày mưa với lượng mưa trung bình từ 1.500 đến
2.000mm. Độ ẩm không khí trên dưới 80%. Số giờ nắng khoảng 1.500 - 2.000 giờ,
nhiệt bức xạ trung bình năm 100kcal/cm².
Nhìn
chung, Việt Nam có một mùa nóng mưa nhiều và một mùa tương đối lạnh, mưa ít. Do
ảnh hưởng gió mùa, địa hình phức tạp, khí hậu nước ta luôn thay đổi trong năm,
giữa năm này với năm khác, giữa nơi này với nơi khác (từ Bắc xuống Nam và từ
thấp lên cao). Nhưng chính vị trí địa lý và sự đa dạng về địa hình lại là điều
kiện thuận lợi cho sự đa dạng về chủng loại thực vật.
Nước
ta là một nước nông nghiệp. Nó được thiên nhiên hào phóng ban cho những điều
kiện tốt nhất để làm nông. Thay vì chú trọng công nghiệp chế biến sản phẩm nông
nghiệp cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu, thì những thế hệ cầm quyền nối tiếp
nhau ra sức làm cái khác: công nghiệp hóa theo cách
những nước không được thiên nhiên ưu đãi làm nông nghiệp.
Người
ta hối hả mời tư bản nước ngoài vào để sản xuất ô tô, thực chất là bán sức lao
động tại chỗ trong việc lắp ráp. Nền công nghiệp được tạo ra bằng nghị quyết và
khẩu hiệu không làm ra được cái đinh ốc cho ra hồn. Được chính quyền bảo kê,
những nhà tư bản nội địa cướp đất của dân, đẩy hàng vạn người suốt đời làm nông
nghiệp ra khỏi mảnh đất cha ông, bắt họ phải sống vật vã trong cảnh bần cùng.
Có
cần phải đưa dẫn chứng không?
Không.
Đất
ruộng bị cướp, rừng bị phá tan hoang, chỉ để xây dựng những thứ không nhất
thiết phải có ngay lập tức - những khu công nghiệp hoành tráng của nước ngoài,
những ngôi nhà chọc trời, làm những khu nghỉ dưỡng sang trọng, những sân gôn
mênh mông.
Hậu
quả nhỡn tiền là lũ lụt triền miên, ô nhiễm lan tràn từ Nam chí Bắc, khí hậu
biến đổi. Việt Nam từ một nước bình thường trở thành một trong những nước nghèo
nhất thế giới. Biết bao người Việt, phải tha phương cầu thực trong cái gọi là "xuất khẩu lao động" thậm chí
bỏ mạng ở xứ ngưòi.
Nông
dân ngày xưa không biết đến các thứ phân bón hóa học. Cũng không có những giống
lúa cao sản lùn tịt cho năng suất cao, nhưng không cho rạ như bây giờ. Rạ là
nhiên liệu không thể thiếu của người nông dân, cho việc nấu ăn, chế tạo phân
chuồng, làm đống rấm chống lạnh có sương muối v.v…
Cũng
ngày xưa ấy có nhiều giống lúa, rất đa dạng và thích hợp với từng cánh đồng,
từng chân ruộng. Gạo cho những bữa cơm cũng nhiều thứ. Cho dù năng suất không
cao, gạo tám thơm mà thế hệ tôi được ăn là thứ gạo tuyệt ngon, con cháu bây giờ
không biết mặt mũi nó thế nào. Thứ tám thơm hạt dài, nấu cơm ở cuối ngõ, đầu
ngõ nghe thấy hương bay ngào ngạt.
Cái
cũng mang danh tám thơm mà các cửa hàng đặc sản ngày nay dọn cho khách sẵn tiền
là cũng là thứ gạo hạt dài, đẹp mã, giỏi lắm cũng chỉ là bà con xa của thứ tám
thơm đã tuyệt chủng.
Bây
giờ thiên hạ mơ ước “bao giờ cho đến ngày
xưa”. Người rủng rỉnh tiền mới được ăn các thứ rau quả giá đắt từ các cửa
hàng bio đang mọc lên như nấm, chỉ ở đó mới có những thứ trời sinh người dưỡng.
Người nghèo thì đành ra chợ nhắm mắt mua về những thứ được tẩm đẫm hoá chất độc
hại nhập cảng từ đất nước “bạn vàng”. Hậu
quả của cuộc chạy đua theo lợi nhuận còn là sự hủy hoại tâm hồn những người
nông dân hiền lành, biến họ thành những sát thủ giấu mặt.
Đường
là do người đi lại nhiều mà thành. Đó là thuận theo tự nhiên. Những con đường
được vẽ ra trong đầu những người tự xưng “lãnh
đạo” và bắt dân làm theo ý mình, không dẫn tới phồn vinh mà dẫn tới đói
nghèo.
May
thay cho các dân tộc không có những nhà lãnh đạo tự xưng như ta có.
Tôi
có anh bạn Nga giám đốc một công ty du lịch. Công ty của anh khá phát đạt. Anh
cho biết: “Du khách của tôi có hai loại.
Một là loại thích xem di tích lịch sử. Một loại thích tìm đến thiên nhiên hoang
dã. Loại thứ hai ngày một đông. Người ta không đến nước Nga để xem các nhà máy
mới xây dựng. Họ muốn được chiêm ngưỡng những gì còn lại của thiên nhiên chưa
bị hủy hoại”.
Nhiều
quốc gia trở nên giàu có nhờ du lịch. Người ta không đến Tây Nguyên để ngắm
những công trình bằng bê tông cao ngất, để ngủ trong những căn phòng sang trọng
của những khách sạn đắt tiền. Người ta muốn được xem những nhà sàn, nhà rông,
những tượng gỗ mốc meo ở những nhà mồ, được lang thang trong những rừng già
nguyên sinh.
Những
thứ đó không còn nữa.
Một
câu hỏi bất giác nảy ra trong tôi: “Liệu
tiền của kiếm được từ những nhà máy làm ô tô, những công xưởng người nước ngoài
được mời gọi đặt ở nước ta, so với cái thu được từ du lịch sinh thái sẵn có,
rồi cái nào sẽ lớn hơn”?
5
Bây
giờ có người đã tỉnh ra, nói: “Lỗi ở
chúng ta. Chúng ta đã không thuận theo thiên nhiên”.
Tôi
không thể nói như thế.
Từ
“chúng ta” bị lạm phát vô tội vạ. Dân
chúng, tức là chúng ta, từ lâu đã mất hết mọi quyền, kể cả quyền có lỗi. Người
không làm thì sao có thể gây ra lỗi?
Lỗi
ở kẻ khác.
Lỗi
ở kẻ nắm quyền cai trị đất nước, kẻ tự tung tự tác, muốn làm gì thì làm, dân
chỉ có việc nghe theo, vì chúng vĩnh viễn “duy
nhất đúng” và “vô cùng sáng suốt”, chỉ
có chúng mới xứng đáng để cầm đầu dẫn dắt bá tính.
Bây
giờ, một lần nữa, chúng lại xưng “đúng”
khi mang đất đai của tổ tiên ra bán từng phần.
Trước
khi chúng sắn tay áo bán tất!
FB VŨ THƯ HIÊN 11.06.2018
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.