Saigon ngày 31/01/1968 trong cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân. Ảnh tư liệu |
Theo tác giả Bennet Murray trên trang Politico,
năm mươi năm sau bước ngoặt của cuộc chiến tranh Việt Nam, chính quyền
cộng sản vẫn dập tắt các cuộc tranh luận về những kỷ niệm đau thương
này.
Ngọc
Đại là một người lính quân đội nhân dân 23 tuổi, đang chiến đấu chống
lại người Mỹ gần căn cứ Khe Sanh bị bao vây, khi đơn vị ông nhận được
một mệnh lệnh gây phấn khích. Họ sẽ ra khỏi rừng rậm, “giải phóng” cố đô Huế ở miền Trung và khởi động một cuộc nổi dậy trên toàn quốc.
Đó
là ngày 30 tháng Giêng năm 1968, ba năm sau khi tổng thống Lyndon
B.Johnson ra lệnh gởi 125.000 quân Mỹ đến Việt Nam để ngăn không cho
cộng sản chiếm được miền Nam, và phần còn lại của Đông Nam Á.
Đại
và các đồng chí của mình nhìn sự kiện này theo kiểu khác: với lòng tự
hào dân tộc, họ có sứ mệnh thống nhất Việt Nam, tung ra cuộc tấn công
bất ngờ vào quân đội Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và Mỹ, mà nay được biết
đến với tên cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân (Tet Offensive).
Chùa Ấn Quang đổ nát. |
Ông Đại, năm nay 73 tuổi, khi trả lời phỏng vấn tại nhà ở Hà Nội vào tháng Giêng đã nói: “Lòng
căm thù của người lính miền Bắc là rất lớn. Tất cả các chiến sĩ đều tin
rằng chúng tôi sẽ giải phóng được toàn bộ đất nước”.
Nguyễn
Quý Đức, năm đó mới 9 tuổi, có kỷ niệm khác hẳn về dịp đầu năm 1968.
Đức về thăm gia đình nhân dịp Tết nguyên đán, ngày lễ quan trọng nhất
của người Việt. Cha của anh là một tỉnh trưởng, đang cố gắng duy trì
tình hình có vẻ bình thường, tại miền Nam đang bị chiến tranh hoành
hành.
Lệnh ngưng bắn đã được thỏa thuận trong dịp Tết, với đa số
quân nhân VNCH được về phép. Có nghĩa là một tuần lễ được nghỉ xả hơi
trong thời chiến. Nhưng khi đang ngủ trong nhà của người ông, Đức bị
những tiếng súng nổ đánh thức vào lúc một giờ sáng. Những người lính có
nhiệm vụ bảo vệ gia đình đã biến đâu mất, xung quanh là những người đàn
ông nói giọng miền Bắc.
“Mẹ tôi ra cửa và nói: “Tôi có hai cháu
nhỏ ở đây”. Người bộ đội trả lời: “Chúng tôi sẽ bắn bất kỳ ai trông
thấy, nếu bà không nói với chúng tôi về tất cả mọi người trong nhà”.
Đức kể lại như thế, trong một nhà hàng hiện ông đang sở hữu ở Hà Nội.
Đức nhìn thấy người cha bị dẫn đi và tin rằng ông sẽ bị sát hại, trong
khi những người còn lại trong gia đình chen chúc dưới một căn hầm suốt
nhiều ngày, cho đến khi được lính Mỹ và VNCH cứu thoát.
Tranh luận ở Mỹ, im lặng tại Việt Nam
Vào dịp kỷ niệm 50 năm, cuộc tiến công Tết Mậu Thân tại Huế và nhiều nơi
khác được tranh luận và mổ xẻ trên báo chí, sách vở ; các cuộc hội
nghị, chương trình truyền hình và triển lãm được tổ chức trên toàn nước
Mỹ, nơi mà sự kiện này đã khiến cho dư luận trở nên chống đối chiến
tranh. Nhưng tại Việt Nam, việc kỷ niệm thời điểm lịch sử - diễn ra
trong dịp Tết năm nay vào ngày 16/2 - lại khác, nếu không nói là hoàn
toàn khác. Và việc các ông Đại và Đức chấp nhận chia sẻ những kỷ niệm là
khá hiếm hoi, trong một đất nước mà sự kiện này hiếm khi được công khai
thảo luận.
Mặc cho những cải cách dần dà về thị trường của Hà
Nội, và tình hữu nghị đang tăng lên với Hoa Kỳ, những chia rẽ lâu nay
giữa miền Bắc và miền Nam còn khá sâu đậm ở Việt Nam. Đối với hàng triệu
người miền Nam vẫn coi mình là bên thua cuộc trong chiến tranh, cùng
với một số ít người miền Bắc nuối tiếc chế độ cộng sản, dịp kỷ niệm này
là lời nhắc nhở đau thương về một quá khứ đau buồn.
Politico
nhận định, những ai đã từng sống qua Tết Mậu Thân đều e ngại nói ra,
trong một đất nước mà điều luật mơ hồ về tuyên truyền chống Nhà nước có
khung hình phạt đến 20 năm tù. Hàng loạt vụ thanh trừng đã xảy ra tại
Huế -thành phố nằm trong số những chiến trường đẫm máu nhất - nhưng
chính quyền tránh không đề cập đến : chủ đề người Việt giết người Việt
quá nhạy cảm.
Khởi đầu cho dịp kỷ niệm 50 năm tổng tấn công Tết
Mậu Thân, có rất ít dấu hiệu được tuyên truyền rộng rãi. Thay vào đó,
các áp-phích ở Hà Nội, vốn là nét đặc trưng trên khắp các đường phố, lại
chào mừng 88 năm ngày thành lập Đảng 3/2. Lễ kỷ niệm chính thức Tết Mậu
Thân 1968 diễn ra dưới dạng một bữa tiệc linh đình dành cho các cán bộ
cao cấp tại Thành phố Hồ Chí Minh, với các màn trình diễn văn nghệ.
Theo
ông Nguyễn Quang A, 72 tuổi, một doanh nhân về hưu và cựu đảng viên đã
trở thành một nhà ly khai ở Hà Nội, ký ức về Tết Mậu Thân chỉ được công
khai nói đến bằng những từ ngữ mơ hồ. “Tôi nghĩ rằng Đảng muốn chôn vùi mọi kỷ niệm cũ, vì nó làm suy yếu tính chính danh của họ”.
Còn
ông Đức, mà người cha là viên chức dân sự đã bị cầm tù 12 năm và không
hề được xét xử, nói rằng thảm kịch không được biết đến rộng rãi này là
hết sức đáng đau buồn. “Thật đau khổ khi đi một vòng, gặp gỡ nhiều người, đặc biệt là những người trẻ, mà họ không hề hay biết về những gì đã xảy ra”.
Hầu
hết những câu chuyện về trận đánh và các vụ thanh trừng ở Huế, chỉ được
chia sẻ một cách an toàn bên ngoài Việt Nam. Nhưng trong những tuần lễ
gần đây, tác giả bài viết đã tìm được một ít nhân chứng lớn tuổi, chấp
nhận kể lại một cách thẳng thắn. Đặc biệt là họ chưa bao giờ thổ lộ về
những kỷ niệm đẫm máu năm 1968.
Trận đánh Huế, rất dữ dội từ ngày
30 tháng Giêng cho đến tận đầu tháng Ba, là trung tâm của cuộc tổng tiến
công Tết Mậu Thân. Trong khi những thành phố khác được tái chiếm sau
vài ngày, Huế lại bị chiếm đóng hầu như toàn bộ, chỉ có những nhóm nhỏ
thủy quân lục chiến Mỹ và lính VNCH chống chọi với quân Bắc Việt trong
trận chiến khốc liệt kéo dài cả tháng trời.
Cán binh Việt Cộng bị bắt trong Tết Mậu Thân. |
Huế và khói nhang Mậu Thân
Trong
trận tiến công Huế, có 216 quân nhân Mỹ, hầu hết là thủy quân lục
chiến, đã bị tử trận khi giành giật từng căn nhà một. Quân cộng sản
chiến đấu kịch liệt, theo chiến thuật “nắm thắt lưng địch mà đánh”,
tức tiến sát phòng tuyến của Mỹ để tránh bị dội pháo. Quân Bắc Việt có
2.400 người chết, còn phía VNCH có 452 quân nhân tử trận. Dù quân cộng
sản buộc phải rút khỏi Huế, nhưng khả năng giữ được thành phố lâu như
thế đã ảnh hưởng đến tuyên bố của chính quyền Johnson là chiến thắng sắp
đến gần.
Ông Đức nhắc nhở rằng dù nhiều người Huế không hài lòng
về sự hiện diện của người Mỹ tại Việt Nam, nhưng đã hoan nghênh việc
quân Mỹ tham dự vào trận đánh và truy quét quân Bắc Việt, cho đến khi họ
quay lại vào năm 1975.
Các vụ quân cộng sản giết hại hàng loạt thường dân Huế bị che giấu tại Việt Nam. Chính quyền chỉ mơ hồ nhìn nhận một số “sai lầm” trong trận chiến, và nhất quyết không chịu công nhận tính chất “thảm sát” như
bên ngoài đều gọi. Những tin tức đầu tiên về các vụ sát hại này là từ
các nghiên cứu của Mỹ, được tiến hành ngay sau trận chiến. Các hố chôn
tập thể được phát hiện xung quanh thành phố. Nhiều người bị trúng đạn
hoặc là nạn nhân của những quả bom đã san bằng Huế, những người khác bị
trói và bị hành quyết, và một số trường hợp rõ ràng là bị chôn sống.
Theo ước tính chính thức của VNCH, có 4.856 người bị sát hại tùy tiện ;
còn theo Douglas Pike, một viên chức ngoại giao Mỹ nghiên cứu về trận
đánh Huế, thì con số này là 2.800 người.
Ông Mark Bowden, tác giả cuốn “Huế 1968: Bước ngoặt cho cuộc chiến Mỹ tại Việt Nam” xuất bản năm 2017, cho Politico biết ông ước tính khoảng 2.000 người đã bị sát hại trong một kế hoạch “thanh trừng”
đã được định sẵn đối với những người làm việc cho chế độ miền Nam, cho
dù ông tin rằng con số thực sự sẽ không bao giờ được biết đến. Bowden
nói: “Chắc chắn là mỗi người mà tôi phỏng vấn, từ Việt Cộng, bộ đội
Bắc Việt cho đến dân sự, không ai chối cãi những gì đã diễn ra. Điểm
tranh cãi duy nhất là có bao nhiêu người đã chết”.
Trong một đất nước đã quá chán ngán với 2.000 năm lịch sử chống ngoại xâm đẫm
máu, tính chất huynh đệ tương tàn của các vụ giết chóc này khiến phe cộng sản “còn
tàn bạo hơn cả tổ chức Nhà nước Hồi giáo” – theo ông Trương Văn Quý, một
người dân Huế 74 tuổi, sống bằng nghề dạy đàn ghi-ta. Ông Quý là một phóng viên
trẻ của báo VNCH trong trận chiến Tết Mậu Thân. Khi tin
tức về vụ tấn công lan ra, ông đã từ Saigon ra Huế, và tận mắt thấy thảm
cảnh. Trong khi gia đình ông vốn làm việc cho người Mỹ, đã chạy trốn
được an toàn, nhiều người láng giềng không có được cái may mắn ấy. Ông
Quý nhớ lại: “Tôi thấy những xác người được đưa ra khỏi hố chôn tập thể, họ đã bị chôn sống”.
Ông
Đại, người bộ đội miền Bắc, nay là nhà soạn nhạc và nằm trong số tương
đối ít các công dân Việt Nam công khai kêu gọi chấm dứt chế độ độc đảng,
nhớ lại đã thấy có những người bị bắt và đẩy lên xe. Cấp trên nói với
ông là những người này làm việc cho chính phủ VNCH, còn những người đi
lùng bắt thuộc một “đơn vị bí mật”. Đại không biết số phận những người tù này ra sao, nhưng các đồng đội ông được lệnh: “Đưa
ra xe, những người này cần phải được đưa đi cải tạo”… “Tôi nghe sơ qua
từ những bộ đội khác là họ có nhiệm vụ đào một hố chôn tập thể”.
Đám tang tập thể các nạn nhân bị sát hại ở Khe Đá Mài, Huế, 1968. Ảnh văn khố quốc gia Mỹ. |
Ông
Đức, đã di tản sang California năm 1975 và nhập quốc tịch Mỹ, trở về
Việt Nam năm 2006, cố tránh đến Huế trong những ngày này. Nêu ra thuật
ngữ trong văn hóa Việt, vốn tin tưởng sâu sắc vào những hiện tượng siêu
nhiên, ông nói rằng các “hồn ma” vẫn vất vưởng trên thành phố. “Bạn đến một góc nào đó trên đường phố, và bạn nhớ ra rằng có một ngôi mộ ở đây vào năm 1968”.
Nhà
sư Trần Viết Mẫn, 54 tuổi, trụ trì chùa Viên Quang ở Huế nói, những ký
ức về Huế vẫn sống động, tục lệ thờ cúng tổ tiên thấm đẫm trong xã hội
Việt Nam. Các thành viên trong gia đình của người quá cố hiện vẫn yên
lặng cúng bái người thân tại nhà. Ông Mẫn nói rằng người dân Huế đã có
được “hòa bình”, nhưng vẫn chưa đạt được “thái bình” trong tâm tưởng. “Chiến tranh đã kết thúc, nhưng hòa bình vẫn chưa hoàn toàn đến”.
Nhà
ly khai Nguyễn Quang A so sánh sự e dè của chính quyền Việt Nam trong
việc nhìn nhận quá khứ, với thời kỳ hòa giải kéo dài sau cuộc nội chiến
Hoa Kỳ. Ông nhấn mạnh, việc hàn gắn vết thương cần có thời gian, ngay cả
trong các xã hội dân chủ “vẫn còn là vấn đề” giữa các tiểu bang miền Bắc và miền Nam nước Mỹ.
Theo Politico,
các nỗ lực hòa giải hầu như không hiện hữu tại Việt Nam. Nửa thế kỷ sau
tổng tiến công Tết Mậu Thân, đảng Cộng Sản vẫn khăng khăng là không có
nội chiến. Bày tỏ quan điểm khác dễ bị chụp mũ là “phản động”, với hậu quả là từ thất nghiệp cho đến những bản án tù lâu dài.
Ông Đức giải thích: “Theo luận điệu tuyên truyền thì đảng đã lãnh đạo
cuộc chiến chống Mỹ. Nhưng nói rằng không có nội chiến, là làm ngơ việc ba
triệu người Việt đã ngã xuống khi cầm súng bắn lẫn nhau, điều đó làm tôi đau
khổ và phẫn nộ”.
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.