Giặc Tàu xâm lược bị bắt trong chiến tranh biên giới 1979. |
(Bài viết đã đăng trên Sài Gòn Tiếp Thị ngày 09/02/2009 nhưng sau
đó bị rút xuống)
Tháng
Hai, những cây đào cổ thụ trước cổng đồn biên phòng Lũng Cú, Hà Giang, vẫn chưa
có đủ hơi ấm để đâm hoa; những khúc quanh trên đèo Tài Hồ Sìn, Cao Bằng, vẫn
mịt mù trong sương núi.
Sáng
7-2 nắng lạnh, vợ chồng ông Nguyễn Văn Quế, 82 tuổi, nhà ở khối Trần Quang Khải
1, thị xã Lạng Sơn, ngồi co ro kể lại cái chết 30 năm trước của con trai mình,
anh Nguyễn Văn Đài. Năm ấy, Đài 22 tuổi. Ông Quế nói: “Để ghi nhớ ngày ấy, chúng tôi lấy Dương lịch, 17-2, làm đám giỗ cho
con”. Năm 1979, vào lúc 5giờ 25 phút sáng ngày 17-2, Trung Quốc nổ súng
trên toàn tuyến biên giới Việt Nam, đánh chiếm từ Phong Thổ, Lai Châu, tới địa
đầu Móng Cái.
“Những đôi mắt”
Hôm
ấy, ông Quế không có nhà, vợ ông, bà Dự, bị dựng dậy khi bên ngoài trời hãy còn
rất tối. Bà nghe tiếng pháo chát chúa ở hướng Đồng Đăng và phía dốc Chóp Chài,
Lạng Sơn. Bà Dự đánh thức các con dậy, rồi bốn mẹ con dắt díu nhau chạy về
xuôi. Tới ki-lô-mét số 10, đã quá trưa, bà rụng rời khi hay tin, anh Đài đã bị
quân Trung Quốc giết chết.
Anh
Đài là công nhân đường sắt, thời điểm ấy, các anh đương nhiên trở thành tự vệ
bảo vệ đoạn đường sắt ở Hữu Nghị Quan. Anh em công nhân trong đội của Đài bị
giết gần hết ngay từ sáng sớm. Đài thuộc trong số ba người kịp chạy về phía
sau, nhưng tới địa bàn xã Thanh Hòa thì lại gặp Trung Quốc, thêm hai người bị
giết. Người sống sót duy nhất đã báo tin cho bà Dự, mẹ Đài.
Cùng
thời gian ấy, ở bên núi Trà Lĩnh, Cao Bằng, chị Vương Thị Mai Hoa, một giáo
viên cấp II, người Tày, mới ra trường, cũng bị giật dậy lúc nửa đêm rồi theo bà
con chạy vào hang Phịa Khóa. Hàng trăm dân làng trú trong hang khi pháo Trung
Quốc gầm rú ở bên ngoài, rồi lại gồng gánh theo nhau vào phía Lũng Pùa, chạy
giặc. Chị Hoa không bao giờ có thể quên “từng
đôi mắt” của dòng người gồng gánh ấy.
Giờ
đây, ngồi trong một cửa hàng bán băng đĩa trên phố Kim Đồng, thị xã Cao Bằng,
chị Hoa nhớ lại: “Năm ấy, tôi 20 tuổi.
Tôi nghĩ, tại sao mình lại chạy!”. Chị quay lại, sau khi thay quần áo giáo
viên bằng bộ đồ chàm vì được những người chạy sau cho biết, rất nhiều người dân
ăn mặc như cán bộ đã bị quân Trung Quốc giết chết. Từ trên đồi, chị Hoa thấy
quân Trung Quốc gọi nhau ý ới và tiến vào từng đoàn.
“Cuộc Chiến 16 Ngày”
Ngày
15-2-1979, Đại tá Hà Tám, năm ấy là trung đoàn trưởng trung đoàn 12, thuộc lực
lượng Biên phòng, trấn ở Lạng Sơn, được triệu tập. Cấp trên của ông nhận định: “Ngày 22 tháng 2, địch sẽ đánh ở cấp sư
đoàn”. Ngay trong ngày 15, ông ra lệnh cấm trại, “Cấp chiến thuật phải sẵn sàng từ bây giờ”, ông nói với cấp dưới.
Tuy nhiên, ông vẫn chưa nghĩ là địch sẽ tấn công ngay. Đêm 16-2, chấp hành ý
kiến của Tỉnh, ông sang trại an dưỡng bên cạnh nằm dưỡng sức một đêm bởi vì ông
bị mất ngủ vì căng thẳng sau nhiều tháng trời chuẩn bị. Đêm ấy, Trung Quốc
đánh.
Ở
Cao Bằng, sáng 16 tháng 2, tất cả các đồn trưởng Biên phòng đều được triệu tập
về thị xã Cao Bằng nhận lệnh, sáng hôm sau họ tìm về đơn vị triển khai chiến
đấu khi Trung Quốc đã tấn công rồi. Sáng 17-2, Tỉnh Cao Bằng ra lệnh “sơ tán triệt để khỏi thị xã”; đại đội
22 của thị xã Cao Bằng được trang bị thêm 17 khẩu súng chống tăng B41. Ngày
18-2, một chiếc tăng Trung Quốc có “Việt
gian” dẫn đường lọt tới Cao Bằng và bị tiêu diệt. Nhiều nơi, chỉ khi nhìn
thấy chữ “Bát Nhất”, người dân mới
nhận ra đấy là tăng Trung Quốc.
Đại
tá Hà Tám công nhận: “Về chiến lược ta
đánh giá đúng nhưng về chiến thuật có bất ngờ”. Tuy nhiên, Đại tá Hoàng Cao
Ngôn, Tỉnh đội trưởng Cao Bằng thời kỳ 17-2, nói rằng, cho dù không có bất ngờ
thì tương quan lực lượng là một vấn đề rất lớn. Phần lớn quân chủ lực của Việt
Nam đang ở chiến trường Campuchia. Sư đoàn 346 đóng tại Cao Bằng nhiều năm chủ
yếu làm nhiệm vụ kinh tế, thời gian huấn luyện sẵn sàng chiến đấu trở lại chưa
nhiều. Lực lượng cầm chân Trung Quốc ở tuyến một, hướng Cao Bằng, chủ yếu là
địa phương quân, chỉ có khoảng hơn 2 trung đoàn.
Trong
khi, theo tài liệu từ Trung Quốc, chỉ riêng ở Cao Bằng trong ngày 17-2, Trung
Quốc sử dụng tới 6 sư đoàn; ở Lạng Sơn 3 sư và Lào Cai 3 sư. Hôm sau, 18-2,
Trung Quốc tăng cường cho hướng Cao Bằng 1 sư đoàn và 40 tăng; Lạng Sơn, một sư
và 40 tăng; Lào Cai, 2 trung đoàn và 40 tăng. Lực lượng Trung Quốc áp sát Biên
giới vào ngày 17-2 lên tới 9 quân đoàn chủ lực. Ngày 17-2, Trung Quốc tiến vào
Bát xát, Lao Cai; chiều 23-2, Trung Quốc chiếm Đồng Đăng; 24-2, Trung Quốc
chiếm thị xã Cao Bằng; ngày 27-2, ở Lạng Sơn, Trung Quốc đánh vào thị xã.
Thế
nhưng, bằng một lực lượng nhỏ hơn rất nhiều, các đơn vị Biên giới đã nhanh
chóng tổ chức chiến đấu. Theo cuốn “10
Năm Chiến Tranh Trung Việt”, xuất bản lần đầu năm 1993 của NXB Đại học Tứ
Xuyên, quân Trung Quốc đã gọi con đường tiến vào thị xã Cao Bằng của họ là
những “khe núi đẫm máu”. Đặc biệt,
tiểu đoàn Đặc công 45, được điều lên sau ngày 17-2, chỉ cần đánh trận đầu ở
kilomet số 3, đường từ Cao Bằng đi về xuôi qua đèo Tài Hồ Sìn, cũng đã khiến
cho quân Trung Quốc khiếp vía.
Những
người dân Biên giới cho đến hôm nay vẫn nhớ mãi hình ảnh “biển người” quân Trung Quốc bị những cánh quân của ta cơ động liên
tục, đánh cho tan tác. Đầu tháng 3-1979, trong khi hai sư đoàn 346, Cao Bằng và
338, Lạng Sơn, thọc sâu đánh những đòn vu hồi. Từ Campuchia, sau khi đuổi Pol
Pốt khỏi Phnompênh, hai quân đoàn tinh nhuệ của Việt Nam được điều ra phía Bắc.
Ngay sau khi Quân đoàn II đặt những bước chân đầu tiên lên Đồng Mỏ, Lạng Sơn;
Quân Đoàn III tới Na Rì; Chủ tịch Nước ra lệnh “Tổng Động viên”… ngày 5-3-1979, Trung Quốc tuyên bố rút quân về
nước.
Lào
Cai, Sapa, Đồng Đăng, Lạng Sơn… bị phá tan hoang. Tại Cao Bằng, quân Trung Quốc
phá sạch sẽ từng ngôi nhà, từng công trình, ốp mìn cho nổ tung từng cột điện.
Nếu như, ở Bát Xát, Lao Cai, hàng trăm phụ nữ trẻ em bị hãm hiếp, bị giết một
cách dã man ngay trong ngày đầu tiên quân Trung Quốc tiến sang. Thì, tại thôn
Tổng Chúp, xã Hưng Đạo, huyện Hòa An, Cao Bằng, trong ngày 9-3, trước khi rút
lui, quân Trung Quốc đã giết 43 người, gồm 21 phụ nữ, 20 trẻ em, trong đó có 7
phụ nữ đang mang thai. Tất cả đều bị giết bằng dao như Pol Pốt. Mười người bị
ném xuống giếng, hơn 30 người khác, xác bị chặt ra nhiều khúc, vứt hai bên bờ
suối.
Ngồi
đợi ông Nguyễn Thanh Loan, người trông giữ nghĩa trang Vị Xuyên, Hà Giang,
chúng tôi nhìn ra xa. Tháng Hai ở đây mới là mùa hoa đào nở. Nghĩa trang có 1.680
ngôi mộ. Trong đó, 1.600 mộ là của các liệt sĩ hy sinh trong cuộc chiến tranh
từ ngày 17-2. Ở Vị Xuyên, tiếng súng chỉ thật sự yên vào đầu năm 1990. Năm
1984, khi Trung Quốc nổ súng trở lại hòng đánh chiếm hơn 20 cao điểm ở Thanh
Thủy, Vị Xuyên, bộ đội đã phải đổ máu ở đây để giành giật lấy từng tấc đất. Rất
nhiều chiến sĩ đã hy sinh, đặc biệt là hy sinh khi tái chiếm đỉnh cao 1509.
Ông
Loan nhớ lại, cứ nửa đêm về sáng, xe GAT 69 lại chở về, từng túi tử sĩ xếp
chồng lên nhau. Trong số 1.600 liệt sĩ ấy, chủ yếu chết trong giai đoạn 1984,
1985, có người chết 1988, còn có 200 ngôi mộ chưa xác định được là của ai. Sau
khi hoàn thành việc phân giới cắm mốc, cái pháo đài trên đỉnh 1509 mà Trung
Quốc giành được và xây dựng trong những năm 80, vẫn còn. Họ nói là để làm du
lịch. Từ 1509, có thể nhìn thấu xuống thị xã Hà Giang. Năm 1984, từ 1509 pháo
Trung Quốc đã bắn vào thị xã.
Trên
đường lên Mèo Vạc, sương đặc quánh ngoài cửa xe. Từng tốp, từng tốp trai gái
H’mông thong thả cất bước du xuân. Có những chàng trai đã tìm được cho mình cô
gái để cầm tay. Một biên giới hữu nghị và hòa bình là vô cùng quý giá. Năm
1986, vẫn có nhiều người chết vì đạn pháo Trung Quốc nơi đoạn đường mà chúng
tôi vừa đi, nơi các cô gái, hôm nay, để cho các chàng trai cầm tay kéo đi với
gương mặt tràn trề hạnh phúc.
Quá
khứ, rất cần khép lại để cho những hình ảnh như vậy đâm chồi. Nhưng cũng phải
trân trọng những năm tháng đã thuộc về quá khứ. Tháng Hai, đứng ở bên này cửa
khẩu Chi Ma, Lạng Sơn, nhìn
sang bên kia, thấy lừng lững một tượng đài đỏ rực mà theo các sĩ quan Biên
phòng, Trung Quốc gọi là “ đài chiến
thắng”. Trở lại Lạng Sơn, những chiếc xe tăng Trung Quốc bị quân và dân ta
bắn cháy hôm 17-2 vốn vẫn nằm bên bờ sông Kỳ Cùng, giờ đã được bán sắt vụn cho
các khu gang thép. Ở Cao Bằng, chúng tôi đã cố nhờ mấy người dân địa
phương chở ra kilomet số 3, theo hướng đèo Tài Hồ Sìn, tìm tấm bia ghi lại trận đánh diệt 18 xe Trung
Quốc của tiểu đoàn đặc công 45, nhưng không thấy.
Trở
lại Tổng Chúp, phải nhờ đến ông Lương Đức Tấn, Bí thư Chi bộ, nguyên huyện đội
phó Hòa An, đưa ra cái
giếng mà hôm 9-3-1979, quân Trung Quốc giết 43 thường dân Việt Nam. Ông
Tấn cũng chính là một trong những người đầu tiên trở về làng, trực tiếp đỡ từng
xác phụ nữ, trẻ em, bị chặt bằng búa, bằng dao rồi quăng xuống giếng. Cái giếng
ấy bây giờ nằm sâu trong vườn riêng của một gia đình, không có đường đi vào.
Hôm ấy, anh Tấn phải kêu mấy thanh niên đi theo chặt bớt cành tre cho chúng tôi
chụp hình bia ghi lại sự kiện mà giờ đây đã chìm trong gai tre và lau lách.
HUY
ĐỨC
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.