|
Bài
viết ngắn này không nhằm “tranh luận” với
PGS TS Bùi Hiền về đề nghị “cải tiến chữ
Việt" của ông cho bằng, nhân cơ hội này, chúng ta ôn lại với nhau
những điểm căn bản của chữ Quốc Ngữ, là thứ chữ dùng mẫu tự La-tinh để ký âm
tiếng Việt.
Bài viết rất ngắn này cũng không phải
là một công trình nghiên cứu để đem ra thảo luận với các nhà ngữ học và ngôn
ngữ học về tiếng Việt.
Gọi là căn bản, điều này có nghĩa là
đụng chạm tới những điểm này, thay đổi hay xoá bỏ những điểm này thì chữ Quốc
Ngữ không còn là chữ Quốc Ngữ nữa, mà là một thứ chữ gì khác rồi, nói rõ hơn là
giết chết chữ Quốc Ngữ rồi. Cũng giống như một cái cây, người ta có thể hái
hoa, hái quả, thậm chí cắt bớt cành, cái cây vẫn là cái cây; nhưng khi người ta
đốn gốc, đào rễ thì cái cây không còn là cái cây nữa. Nó chết. Căn bản có nghĩa
là rễ (căn), gốc (bản). Bởi vậy người ta mới nói kẻ mất gốc là “vong bản.”
Đây là những điểm căn bản của chữ Quốc
Ngữ:
1. Chữ Quốc Ngữ là một hệ thống ký âm:
âm phát ra như thế nào thì dùng những chữ cái (mẫu tự, ký tự) a,
b,
c,
d,
đ v.v…
để ghi lại âm đó lên trên giấy. Cũng giống như người ta dùng những nốt nhạc do,
re, mi, fa, sol, la, si để ghi lại trên giấy âm thanh của một khúc nhạc, một
bản nhạc. Điểm này cho thấy chữ Quốc Ngữ và chữ Hoa (chữ Tàu) đặt trên hai nền
tảng hoàn toàn khác nhau: chữ Hoa đặt trên nền tảng hình vẽ, hình tượng thế nào
thì vẽ ra như thế, đơn giản nét đi rồi cho vào một ô vuông tưởng tượng mà thành
ra chữ.
2. Chữ Quốc Ngữ là thứ chữ ghi tiếng nói của cả nước chứ không phải ghi tiếng nói của một
miền, một vùng, một thành phố, cho dù thành phố đó là Hà Nội. Khi các nhà
truyền giáo sáng tạo chữ Quốc Ngữ, các ông này đã đi khắp tất cả mọi nơi trên
đất nước ta: Đàng Trong, Đàng Ngoài, miền Bắc, miền Trung, miền Nam, thu thập
các cách phát âm, tổng hợp lại mà ra các âm (thể hiện bằng những chữ cái) và
các thanh độ (thể hiện bằng các dấu sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng.) Khi chỉ dựa
vào cách phát âm của một miền, một vùng, một thành phố để làm thành bộ chữ thì
thứ chữ ấy không thể được gọi là chữ Quốc Ngữ nữa. Ấy là chưa kể người của một
vùng có thể thay đổi cách phát âm, lý do là có sự thay đổi người sinh sống ở
vùng ấy. Người Hà Nội trước đây và người Hà Nội bây giờ trong cách phát âm có
nhiều điểm không giống nhau.
3. Chữ Quốc Ngữ là thứ chữ có thể nói
là duy nhất tại Á châu nằm trong khối chữ viết dùng hệ thống mẫu tự La-tinh.
Những thứ chữ khác tại Á châu cũng dùng bảng mẫu tự La-tinh đều chỉ có tính
cách thử nghiệm hoặc sử dụng trong phạm vi hạn hẹp, hầu như chỉ có tính cách
phiên âm mà thôi. Đã gọi là nằm trong một hệ thống thì cách phát âm qua ký hiệu
là các chữ cái phải giống nhau hoặc tương tự. Thí dụ: âm [thờ] được ký âm bằng hai
chữ cái T và H: TH. Nhìn ký tự TH, người ta phát âm được là [thờ].
Nếu đổi đi, dùng ký tự W để ghi âm [thờ] thì tự mình tách ra
khỏi hệ thống chung, gây rắc rối, khó hiểu chứ không phải là “hội nhập” thế giới. Người dạy tiếng
Việt ở nước ngoài, khi dạy thường phải dùng phương pháp đối chiếu các ngôn ngữ:
tiếng Việt với tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Tây-ban-nha. Học viên cảm thấy chữ
Việt cũng có cách viết tương tự như ngôn ngữ của họ khiến họ cảm thấy dễ học,
dễ viết. Đổi TH thành W để ghi âm [thờ] thì học viên chỉ có
nước… chết!
4. Bảng mẫu tự tiếng Việt vốn có (từ
thời Alexandre de Rhodes) (1) dựa vào nguyên tắc "đơn giản tối đa" để dễ học, dễ nhớ. Thí dụ: đã có ký tự P
và ký tự H, ghép lại thành PH để ký âm [phờ] thì không cần F
phải có mặt trong bảng mẫu tự nữa. Vì thế mà trong bảng mẫu tự tiếng Việt không
có những chữ cái F, J, W, Z.
5. Tuy đơn giản, bảng mẫu tự này lại
rất tinh tế. Cùng là âm [cờ] mà bình thường được ghi bằng ký
tự C,
lại được ghi bằng ký tự K khi âm [cờ] này đứng trước những
âm I,
E,
Ê
vì đây là 3 âm đầu lưỡi, và được ghi bằng ký tự Q
(u)
khi đứng trước một số âm/vần bắt đầu bằng U (và O.) (2) Bỏ mất điểm tinh
tế này đi, chữ Quốc Ngữ mất đi phần nào nét đặc biệt của nó. Vả lại, nếu đồng
hóa, chỉ dùng K cho tất cả các âm [cờ] thì sẽ ra tình trạng hai chữ CỦA
và QUẢ
được viết giống nhau: KỦA.
6. Chữ Quốc Ngữ có đặc điểm là âm nào
phát ra được cũng ghi (viết) được và chỉ có một cách viết đúng mà thôi. Thí dụ:
phát âm là [chuyện] với phụ âm [chờ] đứng đầu thì phải viết là CHUYỆN;
mà phát âm là [truyện] với phụ âm [trờ] đứng đầu thì phải viết là TRUYỆN.
Người Hà Nội có thể phát âm hai âm [chuyện] và [truyện] giống nhau, đều
là [chuyện] mà thôi, nhưng tại rất nhiều vùng trên toàn đất nước, đồng bào mình
phát âm rất rõ hai âm [chuyện] và [truyện]. Không nên làm nghèo cách phát âm
phong phú của người mình.
Tóm lại,
Bảng mẫu tự tiếng Việt, nếu là bảng
tiêu chuẩn, có 23 chữ cái:
A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y
A B C D Đ E G H I K L M N O P Q R S T U V X Y
Bảng mẫu tự tiếng Việt, nếu là bảng đầy
đủ, có 29 chữ cái:
A Ă Â B C D Đ E Ê G H I K L M N O Ô Ơ P Q R S T U Ư V X Y
A Ă Â B C D Đ E Ê G H I K L M N O Ô Ơ P Q R S T U Ư V X Y
Chúng tôi thấy đây là hai bảng mẫu tự
rất đơn giản và đầy đủ, không cần phải cải cách, thêm bớt gì cả.
Còn việc phiên âm những tiếng nước
ngoài, trong đó có các ký tự F, J, W, Z lại là một vấn đề khác,
chúng tôi không bàn tới ở đây.
Sự “cải
tiến” như PGS TS Bùi Hiền đề nghị đã làm méo mó chữ Quốc Ngữ, nếu không
muốn nói là ám sát nó, rất nguy hại. Nó khiến người ta
hoang mang, tốn thì giờ, tốn công sức. Và nếu vô phúc nó được đem ra áp dụng
thì tiết kiệm đâu không thấy, chỉ thấy nó tiêu phí rất nhiều năng lực, thì giờ
và tiền bạc.
Để tránh sự nguy hại này, chúng tôi đề
nghị chúng ta không tiếp tay
phổ biến nó, cho dù chỉ là
phổ biến để làm trò cười với nhau. Càng làm cho nhau cười, thứ chữ “cải tiến” này càng lan rộng. Các em trẻ
tuổi vốn thích nghịch ngợm đã "chế tác" ra đủ các loại chữ viết “bí
hiểm” để “chít chát” với nhau, nay gặp được thứ đồ chơi này sẽ đem ra dùng… cho
biết. Dùng hoài hoá thiệt. Rốt cuộc, người ta không còn biết đâu là đúng đâu là
sai nữa. Bây giờ đã thấy xuất hiện một bộ “Cuyển
dổi Tiếq Việt” rồi đó. (3)
FB QUYÊN DI 29.11.2017
(1) Alexandre de Rhodes không phải là
ông tổ của chữ Quốc Ngữ. Khi đến đất Việt để truyền đạo, ông phải học tiếng
Việt qua các sách (chép tay) của các giáo sĩ Bồ-đào-nha đã đến miền đất này
trước ông. Nhưng Alexandre de Rhodes đã có công lớn nhất trong việc hình thành
và phát triển chữ Quốc Ngữ. Ông là tác giả hai tác phẩm chữ Quốc Ngữ đầu tiên,
ấn hành tại Rome năm 1651: “Tự Điển
Việt-Bồ-La” và “Phép Giảng Tám Ngày.”
(2) Sự thật QUÝ là QU + UÝ, khi viết
chúng ta giản lược một chữ U, thành ra QUÝ; QUẢ là QU + OẢ, khi viết chúng ta
giản lược chữ O, thành ra QUẢ. Hiện tượng này cũng tương tự như GIÊNG là GI +
IÊNG, khi viết chúng ta giản lược một chữ I thành ra GIÊNG. Có thể một số vị
không đồng ý với cách giải thích này.
(3) Chúng tôi không mất thì giờ ghi lại
tất cả những thay đổi, thêm bớt vào bảng mẫu tự tiếng Việt của PGS TS Bùi Hiền
mà ông gọi là “cải tiến”. Tiếp tay
phổ biến chúng làm gì! Chúng tôi cũng không tiếp tục thảo luận về vấn đề “cải tiến chữ Việt” trên trang Facebook
này. Không ích gì! Ngoại giả, không ai cấm vấn đề “cải tiến chữ Việt” được trình bày và thảo luận trong các cuộc hội
thảo ngôn ngữ.
(Chú
thích của Thụy My : Giáo sư Quyên Di đã nhiều năm giảng dạy tiếng Việt tại
California, Hoa Kỳ. Ông từng chủ trương các tuần báo Tuổi Hoa, Ngàn Thông trước
năm 1975).
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.