Cuộc chiến Việt Nam đã kết
thúc từ 42 năm, nhưng người ta vẫn tiếp tục tranh cãi.
Một
trong những lý do tranh cãi không bao giờ kết thúc chính là việc xác định người
thắng và kẻ thua. Bên nào cũng cho mình là người thắng, hoặc ít nhất là không
thua. Người nghe cả hai phía thì cuối cùng kết luận là không có ai
là người thắng và không có ai là người thua, sau đó đúc kết thành một
triết lý: Chiến tranh không có người thắng, chỉ có sự tan nát là còn lại, tất
cả những ai tham chiến đều thất bại.
Nói
như vậy không sai, thậm chí nó lung linh một chủ nghĩa nhân bản. Nhưng trên
thực tế, người ta chỉ đón nhận nó như một sự nhân nhượng, rộng lượng của kẻ
thắng, và sự vỗ về, xoa dịu cho người chiến bại. Bởi vì, xét về mặt logic, khi
một cuộc đấu kết thúc, không thể không có bên thắng hoặc thua, ngay cả khi
trọng tài phán quyết là hòa. Bao giờ cũng tồn tại sự nhân nhượng từ một phía và
sự an ủi của phía khác. Chỉ đơn giản là nếu chưa phân thắng bại, thì cuộc
chiến chưa thể kết thúc.
Nói
ra điều này để khẳng định một cách khách quan rằng, trong cuộc chiến Việt - Mỹ
kéo dài từ 1955 tới 1973, có một bên thua, bên đó là Hoa Kỳ, và phía
Bắc Việt Nam là bên thắng.
Hoa
Kỳ đặt ra mục đích cuộc chiến là ngăn chặn sự lan tràn của chủ nghĩa cộng sản
xuống phía Nam, từ đó đưa quân đội và vũ khí vào cuộc chiến. Nhưng lại
phải rút về một cách không tự nguyện, khi mục đích đó chưa hoàn thành, đẩy sứ
mệnh đó cho chính quyền Sài Gòn, trong khi cả cố vấn Kissinger
lẫn Tổng thống Mỹ Nixon đều biết rằng, «nếu Mỹ rút, chính quyền
Cộng Hòa Việt Nam sẽ chẳng tồn tại được bao lâu». Kissinger còn an
ủi Nixon: «Cố gắng vá víu cho khỏi bể trong một, hai năm, tới tháng
1/1979 thì chẳng còn ai quan tâm nữa», «Với những trang bị và vũ khí ấy, nếu là
cấp cho Bắc Việt, đủ để họ đánh nhau với ta đến hết thế kỷ này». Và chính
tổng thống Thiệu tuyên bố: «Nếu Mỹ mà không viện trợ cho chúng tôi nữa thì
không phải là một ngày, một tháng hay một năm mà chỉ sau 3 giờ, chúng tôi sẽ
rời khỏi Dinh Độc Lập!».
Tom Polgar, nhân viên cao cấp Đại sứ Mỹ ở miền
Nam, một trong số người Mỹ cuối cùng di tản khỏi Việt Nam, đã ghi lại nhận xét: «Đây là một
cuộc chiến tranh lâu dài và khó khăn mà chúng ta đã thua. Thất bại độc nhất của
lịch sử Hoa Kỳ chắc sẽ không báo trước sức mạnh bá chủ toàn cầu của nước Mỹ đã
chấm dứt. Nhưng... Ai không học được gì ở lịch sử, bắt buộc sẽ phải lặp lại sai
lầm trong lịch sử».
Ngược
lại, mục tiêu «giải phóng miền Nam thực hiện thống nhất đất nước» của
chính phủ miền Bắc Việt Nam cuối cùng đã hoàn thành. Ngày 27/01/1973, toàn bộ quân
đội Mỹ rút khỏi lãnh thổ Việt Nam. Sáng ngày 30/04/1975, tướng Dương Văn Minh
buộc phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Chính phủ Cách mạng Lâm
thời Cộng hòa Miền Nam tiếp quản quyền
lực trên toàn bộ lãnh thổ từ tay chính quyền Việt Nam Cộng
Hòa. Tổng tuyển cử thống nhất hai miền được thực hiện tháng 2/1976.
Trên
những dữ kiện thực tế đó, không thể nói không có bên thắng, bên thua, mặc dù
những phân tích sau này theo từng góc nhìn khác nhau, theo những khái niệm và
định nghĩa thắng bại khác nhau, có thể có những lý và lẽ khác nhau.
Bộ
phim bắt đầu bằng «Bóng ma của quá khứ» chính là các tác giả có ý tìm sự
biện giải cho thất bại của Hoa Kỳ từ quá khứ lịch sử, những nguyên nhân của
những sai lầm của người Mỹ khi gây ra cuộc chiến, những căn cứ đem lại
chiến thắng cho một dân tộc bé nhỏ và nghèo đói. Đó cũng chính là
những thông điệp mà bộ phim muốn chuyển tải tới người xem.
Sự
thất bại đó đến từ hai phía.
Từ
sai lầm của phía Mỹ và sự may mắn của những người cầm đầu chế độ cộng
sản Bắc Việt.
Một
phía, có nguồn gốc từ nỗi sợ hãi quá khứ vẫn ám ảnh người Mỹ, chưa thoát khỏi
trí não của những người cầm quyền trong chính phủ Mỹ. Đó là sự khủng khiếp của
cuộc chiến với Trung Cộng trong chiến tranh Triều Tiên mà người Mỹ vừa trực
tiếp chứng kiến. Người Mỹ vừa chết hụt, khi Liên Xô đặt tên lửa hạt nhân lên
mảnh đất Cuba chỉ cách Mỹ 120km và một sai lầm đã chỉ cách có gang tấc. Nỗi sợ
đó đã được diễn giải thành nguy cơ có thật từ phía khối cộng sản, để khi được
những người đứng đầu trong chính quyền gắn nó với thuyết những quân cờ domino,
thì chiến tranh ngăn chặn đã trở thành chính đáng. Và thực hiện chiến tranh vừa
là trách nhiệm đương nhiên, vừa là niềm kiêu hãnh và vinh quang của người Mỹ.
Nhưng tìm chính danh từ
một nỗi sợ hãi, bản thân nó đã bao hàm sự thất bại, vì sự sợ hãi luôn phóng đại
các đe dọa. Chính sách có nguồn gốc phóng đại luôn chứa đựng giả dối. Sự giả
dối có thể che đậy dưới chế độ độc tài, nhưng sẽ làm chính quyền sụp đổ dưới
chế độ dân chủ, nếu cuộc chiến kéo dài. Thực tế, một đội quân khổng lồ
thiện chiến với những vũ khí siêu hiện đại đã chỉ đối diện với những con người
có hình dáng nhỏ bé, gầy guộc và đói rách, có trên tay những vũ khí thô sơ. Sự
chênh lệch quá đáng về sức mạnh đã tố cáo tính chính danh của cuộc chiến chém
giết.
Nhưng
thất bại của người Mỹ nằm ở chỗ tiến hành một cuộc chiến tranh bằng một chế độ
Dân chủ. Bản chất của Dân chủ mâu thuẫn với bản chất của chiến tranh. Một tập
hợp bao gồm hai thành phần đối kháng với nhau, tự nó thủ tiêu nhau để
tự sụp đổ.
Thất
bại của Mỹ là tất yếu. Không thể chứng minh dân chủ bằng sức mạnh hủy diệt của
bom đạn và sự tàn bạo của vũ khí tối tân.
Và
cũng không thể tiến hành thắng lợi một cuộc chiến tranh bằng cơ chế của một thể
chế dân chủ. Chiến tranh cần quyền lực tập trung của thể chế độc tài.
Chiến tranh là mệnh lệnh và tòa án binh, không có thảo luận lấy quyết định bằng
đa số. Vừa có chiến tranh vừa có biểu tình và bầu cử theo đa số là một nghịch
lý. Bởi vậy, người Mỹ phải thất bại.
Về
phía khác, «Bóng ma quá khứ», lý giải cơ sở nền tảng của chiến thắng của
Bắc Việt Nam. Chính quyền cộng sản Bắc Việt thực tế đã không tìm kiếm sức mạnh
và sự hy sinh bền bỉ của dân chúng từ lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản quốc tế
mà bằng chủ nghĩa yêu nước, bằng ý chí độc lập tự cường và khao
khát tự do. Dân số Việt Nam gần 90% là nông dân, hơn 98% số nông dân ấy là
người mù chữ, lý tưởng cộng sản của chủ nghĩa Mác-Lê dẫu có hấp dẫn người
nghèo, cũng không bằng cách nào đến được với nông dân.
Câu khẩu hiệu có
sức mạnh nhất xuyên suốt cuộc chiến là câu nói nổi tiếng của Hồ Chí Minh: «Không
có gì quý hơn độc lập tự do », không có gì dính líu tới lý tưởng cộng sản
toàn cầu, nhưng làm cho sự hiện diện của người Mỹ trỏ nên không thể biện
giải. Dẫu là gì, và như thế nào, thì sự có mặt của người Mỹ cũng sẽ lặp
lại sự có mặt của người Pháp từng có mặt trước đó hàng trăm năm, và cũng cùng
loại với sự có mặt của người Trung Hoa trước đó hàng nghìn năm. Lý tưởng có thể
bỏ nếu không chịu nổi bom đạn, nhưng còn đất nước, cho dù không chịu nổi bom
đạn thì họ đi đâu để sống? Người Mỹ đã không hiểu điều đó. Người Mỹ có thể làm
mọi chuyện, nhưng chỉ sự hiện diện của họ với vũ khí trên đất Việt, đã đủ để họ
thành kẻ thù, và cũng đủ để họ thất bại.
Ý
chí độc lập và khát vọng tự do điều khiển bởi một bộ máy tập
trung siêu quyền lực, là hai yếu tố tạo ra sức mạnh vô địch, làm ra chiến
thắng. Hitler và Nhật Hoàng sở dĩ có thể làm ra những kỳ tích, chính là có
được hai yếu tố đó. Nó trở nên thất bại, khi một trong hai yếu tố đó chuyển hóa
và biến mất. Lý thuyết chiến tranh nhân dân và quân đội toàn dân là chiến
thuật biến toàn dân thành lính, phục tùng một cách vô điều kiện và được
đưa lên thành tiêu chuẩn đạo đức, chính là học thuyết quân sự
của các đảng cộng sản Việt Nam và Trung Quốc.
Nói
là sự may mắn của những người lãnh đạo trong bộ máy cầm quyền của chế độ cộng
sản Bắc Việt, chính là sự trùng lặp vô tình giữ lý tưởng cộng sản với chủ nghĩa
yêu nước.
Căn
cứ để xác minh nhận định này là sự thất bại của chính chế độ từ sau
chiến thắng 30/04.
Đảng
cộng sản Việt Nam đã không hiểu nguyên nhân đích thực dẫn đến chiến thắng.
Họ vẫn tin rằng đó là thắng lợi của đường lối đúng đắn của đảng,
là tính «bách chiến bách thắng» của chủ nghĩa Mác Lênin. Ông Lê
Duẩn tổng kết chiến tranh và kết luận, «Giai đoạn thứ nhất của cách mạng vô
sản là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ giành độc lập dân tộc và thống nhất đất
nước đã hoàn thành. Cách mạng Việt Nam từ nay bước sang giai đoạn thứ
hai, giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội không kinh qua phát triển tư
bản chủ nghĩa». Đại hội Đảng lần thứ tư, ngày 14-20/12/1976, đã quyết định
đổi tên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam, thay tên đảng từ đảng Lao động Việt Nam thành đảng Cộng sản Việt
Nam, khẳng định trung thành với chủ nghĩa Mác – Lênin.
Việc
làm này chứng tỏ một điều, rằng lãnh đạo đảng cộng sản không chủ đích dựa vào
chủ nghĩa yêu nước. Họ không hề có ý thức về sức mạnh bất khả khuất phục chính
nằm trong ý chí độc lập dân tộc và khát vọng tự do của dân chúng chứ
không phải là giác ngộ lý tưởng cộng sản chủ nghĩa Mác.
Bắt
đầu từ sau cái Đại hội IV này, sau cái «khẳng định tính bách chiến bách
thắng chủ nghĩa Mác», năm 1976, đảng cộng sản bắt đầu thất bại liên tiếp cả
chỉ đạo kinh tế lẫn chính trị, ngoại giao. Xây dựng «xã hội chủ
nghĩa bỏ qua phát triển tư bản chủ nghĩa» đã đẻ ra
chính sách cải tạo tư bản tư doanh, tiêu diệt kinh tế gia đình và sản xuất cá
thể. Lạm phát lập tức tăng lên tới 780% năm 1986. Tổng thu
nhập quốc dân không đầy 2 tỉ đô. Đất nước chìm vào khủng hoảng,
nền kinh tế mấp mé bờ sụp đổ. Mỹ cấm vận và bao vây kinh tế. Trung Quốc gây
chiến tranh biên giới. Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa cũ chấm dứt viện
trợ và bắt đầu nhắc đến đòi nợ. Bước đi thứ hai, xây dựng chủ nghĩa xã hội sau
cách mạng dân tộc dân chủ, đứng trước sự phá sản, đường lối «sáng
suốt» của đảng đã đưa đất nước quay về gần thời kỳ đồ đá nguyên
thuỷ, không do bom đạn hủy diệt của chiến tranh.
Một
bài học mà những người cộng sản Việt Nam cần rút ra là «lòng dân» chứ
không phải «lý tưởng» cộng sản giúp họ chiến thắng. Dân chúng thực
chất không biết và cũng không cần biết tư tưởng của chủ nghĩa cộng
sản. Thất bại sau chiến tranh đã chứng thực «Những gì hợp lòng dân thì
thắng, trái lòng dân là thất bại».
Thắng
lợi của chế độ cộng sản Bắc Việt, vì vậy, có thể nói được là một nghịch lý
không?
Trên
trục thời gian phát triển của văn minh nhân loại, có thể nói, xã hội Mỹ đi
trước xã hội Việt Nam hàng trăm năm. Có thể là một nghịch lý khi tương lai thất
bại trước quá khứ không?
Nhiều
ý kiến cho rằng sự hiện diện của người Mỹ trong vai trò điều khiển đã làm cho
cuộc chiến chống cộng thất bại. Điều này hoàn toàn có thể hiểu được. Sự hiện
diện và can thiệp vào một công việc nội bộ của một quốc gia có chủ quyền khác
cách hàng chục ngàn km đã bác bỏ mọi khả năng tuyên truyền của phía ủng hộ,
nhưng lại là lý do tạo ra hiệu quả tuyên truyền của phía đối địch. Không có
chính danh, không thể được thừa nhận chính danh, không thể tạo ra chiến thắng.
Vì
vậy có những ý kiến cho rằng sai lầm của người Mỹ chính nằm ở chủ trương can
thiệp trực tiếp. Nếu với cùng những phí tổn cho chiến tranh, người ta dành cho
đầu tư xây dựng và phát triển kinh tế, thì với hỗ trợ kỹ thuật và công nghệ Mỹ,
miền Nam Việt Nam đã trở thành một cường quốc kinh tế, vượt xa Singapore và Nam
Hàn, vì khởi điểm của miền Nam hơn hẳn, và năng lực sáng tạo của người Việt
không kém bất cứ dân tộc nào. Như vậy, khả năng thống nhất đất nước một cách
hòa bình sẽ rất cao và theo chiều ngược lại. Người ta đã bỏ qua và giải pháp
này đã không được một ai nghiên cứu một cách nghiêm túc. Ít ra, chỉ cần phát
triển miền Nam cũng đã đủ để vô hiệu hóa ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản.
Bộ
phim gồm 10 tập và phải mất 10 năm để hoàn thành, với khối lượng tư liệu khổng
lồ, nhưng những thông điệp mà các nhà làm phim muốn nói, có lẽ không cần phải
xem hết toàn bộ. Nước Mỹ đã chia rẽ, rạn nứt, tổn thương và đã làm một công
việc vô ích.
Nhiều
ý kiến cho rằng, dù muốn hay không muốn, bộ phim do người Mỹ làm, là cách nhìn
của người Mỹ, là vũ trụ quan, nhân sinh quan, phản ánh thang bậc nhận thức và văn
hóa của người Mỹ, không phải là của người Việt. Gọi là Chiến tranh Việt Nam,
nhưng không do người Việt làm.
Nhưng
nếu người Việt làm, thì là người Việt nào, người Việt «Nam» hay người Việt «Bắc»,
tức là người Việt Cộng Hòa hay người Việt Cộng Sản? Người Việt đã đủ trưởng
thành để tự nhận ra và tự thú nhận sai lầm của mình như người Mỹ không
? Bộ phim sẽ chỉ có bên kia chết và tội ác dã man chỉ của phía đối
phương? Nếu người Việt đủ trưởng thành để cho ra đời bộ phim đủ trung thực
khách quan về cuộc chiến tranh này, thì ngay bây giờ, đã thực sự có một cuộc
hoà giải và hoà hợp dân tộc, không phải hòa giải cứ là sự khuất phục
của bên này, và là sự thừa nhận tội ác của bên kia.
Bằng
cuốn phim này, người Mỹ đã tự giải thoát cho nhau, nhưng người Việt, nhờ
người Mỹ mà được thấy những gì thực xảy ra từ cả hai phía, liệu có đủ minh mẫn
và tự trọng để thừa nhận nghịch lý của lịch sử không?
BÙI
QUANG VƠM
25/09/2017 (Tác giả gởi blog Thụy My)
Aucun commentaire:
Enregistrer un commentaire
Remarque : Seul un membre de ce blog est autorisé à enregistrer un commentaire.